Monday, April 3, 2023

AI LÊN XỨ HOA ĐÀO

Mai Đà Lạt trên xứ hoa đào

Khoảng thập niên 60, không ít người miền Nam trong một phút ngẫu hứng nào đó đã thả hồn theo lời ca tiếng nhạc của một bài hát rất thịnh hành.

Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi.
Nghe hơi giá len vào hồn người chiều xuân mây êm trôi
Ai lên xứ hoa đào đừng quên bước lần theo đường hoa
Hoa bay đến muôn người, ngại ngần rồi hoa theo chân ai…

Xứ hoa đào là một trong những tên gọi 
Đà Lạt mà nhạc sĩ Hoàng Nguyên đã thi vị hóa Paris Nhỏ hay Thành phố Hoa… Tuy nhiên, hoa đào trên Đà Lạt không phải là loại anh đào trắng (sakura) của Nhật, cũng không phải là cây đào có quả mà ta gọi là đào lông. Người Đà Lạt gọi đó là cây mai nhưng lại không phải là mai vàng thường thấy ở miền 


Mai Đà Lạt nở rộ vào dịp Giáng sinh và Tết. Mai Đà Lạt không rực ánh vàng như những cây mai mừng xuân thường thấy được trang trí ở Sài Gòn. Mai Đà Lạt có nhụy phơn phớt hồng pha lẫn cánh hoa màu hồng phấn, cũng chẳng giống hoa đào Nhật Tân Hà Nội vốn thuộc loại đào lông.   

Đà Lạt ngày xưa, suốt con dốc từ cầu Ông Đạo lên khu Hòa Bình, cứ vào cuối tháng 12 cây mai nở rộ hai bên đường để báo hiệu mùa xuân đã về. Quanh hồ Xuân Hương những gốc mai già trụi lá cũng bắt đầu trổ bông khiến Đà Lạt nhuộm một mầu hồng nhạt hơn màu xác pháo như nhắc mọi người ngày Tết sắp đến.

Cây mai dọc theo hồ Xuân Hương 

Sau thời gian hoa mai nở rộ, cây bắt đầu đâm chồi xanh và trên cành xuất hiện những chùm trái tím đỏ. Trái mai rụng đầy dưới gốc và nằm yên ở đó cho đến khi hòa vào lòng đất. Trái mai đắng ngắt nên cả đến bọn trẻ cũng chê vì ăn chẳng được và thế là mai trở nên ‘bất khả xâm phạm’ cho đến khi hóa thân, hòa quyện với đất.

Điều đáng buồn là những cội mai già theo thời gian đã từ từ biến mất khỏi Đà Lạt khiến những người ‘yêu’ Đà Lạt cảm thấy như mất đi cái gì đó mỗi khi trở lại chốn xưa. Đà Lạt cũng kém vui khi thiếu những cánh mai hồng của ngày nào. Biết vậy… nhưng chẳng biết làm sao.

Những gốc mai già còn sót lại trên Ga Đà Lạt ngày nay 

Đà Lạt không hổ danh với tên gọi Thành phố Hoa. Thôi thì đủ loại hoa với đủ các giống, trăm hồng nghìn tía. Có một loài hoa dại mà có lẽ chỉ người gốc Đà Lạt mới để ý: hoa Cúc quỳ, còn gọi là hoa hướng dương dại hay nên thơ hơn là hoa Dã quỳ.

Dã quỳ thường nở vàng bờ dậu hoặc ven đường. Thật ra loài hoa này chẳng ai trồng chứ nói chi đến việc bỏ công chăm sóc. Vò lá Dã quỳ trong tay và đưa lên mũi ngửi ta thấy mùi hăng hắc, khó chịu… nhưng ngắm hoa dại nở rộ một màu vàng tươi lại khiến lòng vui một niềm khó tả. 

Hoa 'hướng dương dại' còn gọi là Dã quỳ

Cũng có màu vàng như Dã quỳ nhưng nhạt hơn và nhỏ hơn là những cành Mimosa mà có người bảo đây là loài hoa tượng trưng cho những mối tình chớm nở. Lại có ý kiến cho rằng Mimosa nói lên một tình yêu thầm kín hay tượng trưng cho một vẻ đẹp khiêm tốn.  

Có thể ai đó nghĩ rằng những nụ hoa Mimosa có hình cầu giống hoa trinh nữ nên mới thi vị hóa Mimosa là Trinh nữ Hoa vàng. Các cô gái Đà Lạt đang yêu thường ép Mimosa vào trang sách cũng tựa như ép lá thuộc bài để mong mọi chuyện sẽ thuận lợi cả trong tình yêu lẫn chuyện học hành (?). Hoa Mimosa rất thơm nhưng lại có rất nhiều phấn nên những ai bị dị ứng với phấn hoa chắc chắn sẽ tránh xa loài hoa này. 

Mimosa 

Đà Lạt còn rất nhiều loài hoa với những cái tên thật đặc biệt. Forget-me-not, thuộc họ myosotis, còn được gọi là hoa lưu ly, với thông điệp đừng quên tôi nhé. Hoa tigon qua bài thơ nổi tiếng của TTKH được thi vị hóa qua hình ảnh… hoa dáng như tim vỡ. Cái tên hoa hồng Brigitte Bardot lấy hình tượng của cô đào BB với cặp môi lúc nào cũng như mời gọi nụ hôn…  

Lại có những loài hoa mang những cái tên thật dân giã. Đà Lạt có một loại dây leo người ta thường gọi là bìm bịp, đây là loại cây mọc hoang nhưng lại có hoa rất đẹp, màu tím nhạt tựa như loa kèn. Tôi còn nhớ ngày còn nhỏ thường cắt dây leo bìm bịp thành những đoạn ngắn để làm ‘đạn’ bắn ná thung. Đạn bằng dây bìm bịp bẻ cong hình chữ U khi bắn trúng người cũng đau thấm thía…

Có một loại giây leo mang tên mát mát hay mác mác cho hoa màu tím nhạt và trái non màu xanh, khi chín biến sang màu tím than. Bên trong ruột của trái mát mát là những hột nhỏ màu cam có vị chua chua. Trái mát mát ở Đà Lạt ngày nay được còn được gọi là chanh dây (passion fruit) hoặc chanh leo rất phổ biến trong công nghiệp nước giải khát.

Trái xanh, trái chín và hoa Chanh dây 

Sẽ là một thiếu sót lớn khi nói đến hoa Đà Lạt mà không đả động gì đến hoa lan. Từ xưa đến nay, lan vẫn được biết đến như một loài hoa quý phái, hoa của các bậc vua chúa vương giả. Bố tôi thưở còn sinh thời cũng là một người mê lan đến độ mẹ tôi nhiều lúc phải… bực mình vì thú vui tao nhã của ông.

Vào thập niên 60 nhà tôi có hẳn một vườn lan ở Đà Lạt. Bố tôi dành hết thì giờ cho lan, chỉ để chiêm ngưỡng chứ không hề bán. Ngược lại, ông mua rất nhiều lan của người Thượng để bộ sưu tập của mỗi ngày một phong phú. Ông còn tổ chức các buổi vào rừng để tự săn tìm lan cùng với người Thượng.

Hỏa hoàng

Dụng cụ đi rừng của ông chỉ có búa để đóng những cái đinh dài từ 15 đến 20 phân lên thân cây làm bực thang trèo lên lấy lan. Sau đó dùng dây thòng cây lan xuống chứ không ném vì sợ cây và hoa bị dập! Đi săn thú trong rừng là chạy theo một mục tiêu di động trong khi đi lùng phong lan lại phải quan sát một mục tiêu cố định nằm ở trên cao.

Bố tôi bảo tìm được lan trong rừng là cái duyên may của từng người, có người đứng ngay dưới cây lan mà vẫn không ‘thấy’! Hôm nào kém ‘duyên’ ông tìm những khúc cây mục đem về để trồng lan!

Thủy tiên trắng

Nhìn ông trau chuốt, lau từng chiếc lá của cây lan bằng bông gòn tẩm nước mới thấy một niềm đam mê đặc biệt.   

Thủy tiên vàng

Hoa lan ở Đà Lạt có trên 200 loài, trong đó có 5 loài được phát hiện lần đầu tiên trên thế giới được mang tên Đà Lạt hay Langbiang. Lan Đà Lạt được xếp thành 3 loại chính: thổ lan (lan mọc dưới đất), thạch lan (lan mọc trên đá) và phong lan (lan cộng sinh mọc trên thân của những cây khác). 

Ở Việt Nam, theo các tài liệu lưu hành, hoa lan được biết đến và trồng dưới thời vua Trần Anh Tông (1258-1293). Hầu hết các đề tài nghiên cứu về hoa lan Việt Nam đều do các nhà khoa học người nước ngoài thực hiện. Mới đây, qua bộ sách Cây cỏ miền Nam Việt Nam của GS. Phạm Hoàng Hộ đã liệt kê và bổ sung thêm các loài phong lan nâng tổng số lan có ở Việt Nam lên 755 loài.

Hạc đính (địa lan) 

Lan được đặt tên theo hình dáng và màu sắc của hoa. Có những cái tên nghe rất văn vẻ như bạch hạc, nhất điểm hồng, thủy tiên, tiên hài, hàm lân, kim điệp, long tu, hoàng lan, hạc đính, giáng hương... cũng có những tên rất dân giã như bò cạp, gấm đất…   

Có nhà nghiên cứu nào đó đã ghép tên 24 loại hoa lan thành một bài thơ mang âm hưởng thơ Đường luật, thất ngôn bát cú:
Ngọc điểm, Long tu, Nhất điểm hồng
Mặc lan, Ý thảo, Tục đoạn lông
Huyết nhung, Phượng vĩ, Hàm lân cứng
Hạc đính, Hoàng long, Thanh đạm trung
Trân châu, Gấm đất, Chu đinh tím
Bạch diệp, Luân trần, Mao Tuyết nhung
Dã hạc, Giáng hương, Hồng câu thảo
Thủy tiên, Hạc vĩ, Bạch huệ đồng”.

===

Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du

Thời thanh niên của tôi được tính từ khi rời Ban Mê Thuột (BMT) năm 1964. Trường trung học BMT chỉ có tới lớp Đệ Nhị và khi thi phải về Nha Trang nên sau khi đậu tú tài, tôi lại quay về trường Trần Hưng Đạo, Đà Lạt.

Một lần nữa, Đà Lạt lại gắn bó với cuộc đời tôi, nhưng lần này là thời thanh niên chứ không còn là thời niên thiếu. Điểm đặc biệt nữa là lần này về Đà Lạt tôi ở trọ tại 79 Võ Tánh, đây là con đường có rất nhiều nhà trọ cho sinh viên, học sinh vì ở rất gần Viện Đại học Đà Lạt, trường Bùi Thị Xuân và trường Bồ Đề.

Đà Lạt sương mù 

Căn nhà của gia đình trên đường Phạm Hồng Thái ngày nào nay giao cho gia đình bác Chánh trông coi. Hơn nữa, ở vào tuổi thanh niên thích sống tự do nên tôi trọ học ngoài phố chứ không về ở ngôi nhà gần Trại Hầm. Cùng về Đà Lạt với tôi còn có 3 người bạn học từ BMT gồm Vĩnh Anh, Nguyễn Mạnh Dũng và Trần Hen.  

Vĩnh Anh và tôi vốn có ‘máu văn nghệ’ nên rất hợp nhau. Vĩnh Anh trong thời gian còn đi học đã là tay trống trong một ban nhạc ở các phòng trà trên BMT. Có rủng rỉnh tiền Vĩnh Anh thỉnh thoảng mua đĩa hát 45 tours để hai đứa cùng nghe Francois Hardy, Sylvie Vartan... đôi khi cũng mua sách về đọc chung. 

Vĩnh Anh gắn bó với gia đình tôi như một thành viên đến độ gọi bố mẹ tôi là Cậu, Mợ. Bố mẹ tôi cũng rất qúy người bạn thân của con nên thường giữ Vĩnh Anh ở lại ăn cơm khi nhà còn ở đường Lý Thường Kiệt, gần góc đường Ama Trang Long, BMT. 

Sống xa nhà, hoàn toàn tự do trên Đà Lạt nên 4 đứa chúng tôi – Nguyễn Mạnh Dũng, Vĩnh Anh, Trần Hen và tôi – chỉ lấy việc vui chơi là chính còn chuyện học hành chỉ là… phụ! Bây giờ ngồi nghĩ lại thời gian rong chơi trên Đà Lạt có lẽ là giai đoạn ‘vàng son’ nhất trong lứa tuổi chớm vào đời của tôi. 

Chợ Đà Lạt (1961)

Hồ Xuân Hương trong sương mù

Có những buổi tối bọn con trai nhà trọ chúng tôi chở nhau trên những chiếc xe gắn máy Puchs, Gobel chạy vòng vòng quanh khu Hòa Bình. Hoàn toàn không có chuyện đua xe, bão đêm như một số thanh niên bây giờ. Có hôm cao hứng chạy một vòng hồ Xuân Hương chỉ vì cá nhau quanh hồ có tất cả bao nhiêu cột đèn!  

Có những đêm chúng tôi thả bộ, xuôi dốc Võ Tánh để lang thang ngoài phố. Khuya đói bụng mua bắp nướng trét hành mỡ, mỗi đứa gậm một cái, nhai từ từ mới thấy vị ngọt của bắp vườn mới bẻ. Đậu phụng hay hạt dẻ rang cũng vừa ấm lòng vừa no bụng. Nếu còn đói thì một khúc bánh mì thịt nướng dòn, khát thì có xe sữa đậu nành nóng chuyên phục vụ khách về đêm.

Đà Lạt vốn được coi là thành phố của… tri thức. Nếu nói về những con số khô khan thì Đà lạt xưa có tỷ lệ trường đại học cao nhất nước. Miền Nam trong thập niên 60, chỉ có bốn trường đại học thì Đà Lạt đã chiếm một: Viện Đại Học Đà Lạt bên cạnh các đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh và Huế. Về mặt quân sự, Đà Lạt có Trường Võ bị Đà Lạt đào tạo lớp sĩ quan hiện dịch ra trường với cấp bằng cử nhân, Trường Chiến tranh Chính trị nơi huấn luyện các sĩ quan chuyên ngành ‘giặc nói’ và Trường Đại học Tham mưu dành cho các sĩ quan từ Trung uý cho đến Trung tá.

Trường Võ bị Quốc gia (1968)

Đà Lạt còn có 2 học viện Công giáo: Học viện Dòng Chúa Cứu Thế và Giáo Hoàng Học Viện. Đặc biệt nơi này được giảng dạy bởi các giáo sư thần học đến từ nước ngoài và khoảng trên 100 giáo sư từ phương Tây sang cư ngụ và giảng dạy. Bên cạnh đó là các trường Pháp dành cho con em giới thượng lưu từ Sài Gòn lên học. Người ta biết đến những cái tên như Grand Lycée Yersin, Petit Lycée, Adran, Couvent des Oiseaux, Domaine de Marie...

Grand Lycée Yersin (ngày nay được đổi tên là Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt) là một công trình kiến trúc được Hội Kiến trúc sư thế giới (UIA) công nhận là một trong số 1.000 công trình xây dựng độc đáo của thế giới trong thế kỷ 20. Trường được người Pháp thành lập năm 1927, do kiến trúc sư Moncet thiết kế và chỉ đạo xây dựng. Năm 1932 trường Petit Lycée Dalat được đổi tên thành Grand Lycée de Dalat và đến năm 1935 trường có tên là Lycée Yersin để tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin.

Dãy lớp học được xây hình vòng cung, gạch xây trường là gạch trần đỏ được chở từ châu Âu sang, mái được lợp bằng ngói làm từ Pháp. Điểm nhấn của dãy nhà hình vòng cung là tháp chuông nổi bật trên vòm trời Đà Lạt.

Lycée Yersin với tháp chuông nổi bật trên nền trời Đà Lạt

Cũng vì thế, Đà Lạt trở thành nơi vãng lai của những người đến từ khắp miền Nam và không ít người đã coi đây là thành phố của một thời kỷ niệm. Đà Lạt đối với tôi còn là quê hương thứ hai sau khi gia đình rời Hà Nội vào Nam năm 1953. Từng con dốc, từng ngõ hẻm, từng căn nhà làm bằng gỗ thông, từng hàng quán... đã ăn sâu trong tiềm thức tôi và lúc nào cũng sẵng sàng bùng lên như một ngọn lửa.

Cà phê Tùng là một phần không thể thiếu của Đà Lạt. Hồi mới từ Hà Nội vào Đà Lạt tôi còn nhớ quán cà phê đã ở đó không biết từ bao giờ. Chú Tùng (chúng tôi thường gọi một cách thân mật) là người Bắc di cư, nhưng có lẽ cũng giống như gia đình tôi đã di cư sớm, trước đợt di cư vĩ đại của gần 1 triệu người vào năm 1954.

Tính cho đến ngày nay, cà phê Tùng đã hiện diện ở Đà Lạt hơn một nửa thế kỷ. Chú Tùng nay đã qua đời nhưng những người trong gia đình vẫn còn giữ truyền thống của một tiệm cà phê cổ. Những chiếc bàn cũ kỹ, những bức tranh bạc mầu, những miếng gỗ ốp tường và cả chiếc cửa ra vào lúc nào cũng mở hé là tất cả những gì Tùng xưa bắt đầu và Tùng nay gìn giữ.

Cà phê Tùng ngày nay

Gữa cái rét căm căm của Đà Lạt về đêm, ngồi trong cà phê Tùng nhìn qua lớp cửa kính mới thấy được nét đặc biệt của Đà Lạt trong sương mù. Những ngọn đèn đường mờ mờ, ảo ảo trong sương đêm tạo nên một Đà Lạt hoàn toàn khác với Đà Lạt của ban ngày.

Có người chê cà phê ở Tùng không có gì xuất sắc lắm, có người than nhạc ở Tùng buồn quá, có người lại nói không gian ở Tùng chật chội nhưng không ai phủ nhận sự hiện diện hơn nửa thế kỷ của cà phê Tùng tại thành phố sương mù. Sự hiện diện mang tính cách lịch sử gắn liền với thành phố Đà Lạt.  

Phong cách, kiểu dáng của quán thuở ấy tới bây giờ, lúc nào cũng vẫn vậy. Vẫn những bàn ghế trang trọng mà đơn giản giữ mãi một vẻ không cũ không mới trong tiếng nhạc vừa đủ nghe và cũng vừa đủ để chuyện trò.  

Ngày xa xưa, cà phê Tùng dành trọn ngày Thứ Năm cho khách thưởng thức nhạc Pháp. Người ta có thể nghe Francois Hardy trầm buồn qua Tous les garcons et les fillesTon meilleur ami; Sylvie Vartan nhí nhảnh với La plus belle pour aller danserEn ecoutant la pluie, Quand le film est triste;  Dalida với giọng ca lão luyện qua BambinoHistoire d’un anourBesame Mucho rồi Christophe cất tiếng hát MalAlineMain dans la main hay Charles Aznavour với Et Moi Dans Mon Coin...  

Không gian của Tùng được ngăn cách với thế giới bên ngoài bằng lớp kính. Ngồi trong Tùng ta có thể thấy cảnh sinh hoạt, người qua lại trên khu Hòa Bình hay ngắm các cô nữ sinh áo len xanh Bùi Thị Xuân vào những giờ tan trường. Vào những đêm sương lạnh xuống nhiều, Tùng là cái lò sưởi ấm nhưng đối với tôi, sẽ thú vị hơn khi ngồi trên balcon (chỉ có một bàn duy nhất) để nhìn xuống đường trong cái giá lạnh về đêm của thành phố sương mù. 

Chiếm khoảng lớn trên bức tường chú Tùng treo họa phẩm Người đàn ghi-ta của Vị Ý. Bức tranh có mầu tối sẫn, người đàn guitar một mình một bóng vươn dài rồi gãy gục. Đầu người và đầu phím đàn chúc xuống bục gỗ màu nâu khô.  

Trên vách bên trái là bức Thiếu nữ xanh của Đinh Cường, màu xanh nhung nhàn nhạt một lớp bụi thời gian. Ở gian trong là họa phẩm của Cù Nguyễn, Thiếu nữ mơ màng một hạnh phúc nào với chiếc bandeau màu hồng nhạt cột trên tóc... Hình như những bức tranh muốn nói dù khách có phiêu bạt bất cứ nơi đâu, khi trở lại Đà Lạt vẫn muôn đời là chốn cũ.

Nếu tinh ý, khi bước vào Tùng có thể nhận ra ngay màu nâu chủ đạo của quán từ lớp simili bọc nệm ghế ngồi, những mảnh gỗ ốp trên tường cho đến những bức tranh trang trí, nước sơn tường đều đưa khách về màu nâu sẫm của cà phê rang chín.  

Toàn cảnh gian ngoài cà phê Tùng

Nguyễn Đạt đã viết về Cafe Tùng: “Ông Tùng đã mất vài năm nay, trở thành người thiên cổ, như nhà văn Nguyễn Tuân còn lại ở quán cà-phê Tùng câu chuyện về ly rượu mạnh, như hoạ sĩ Vị Ý còn lại trên bức tường quán Người đàn ghi-ta mãi hoài cơn đam mê khắc khoải. Người con của ông Tùng, Trần Đình Thông, đảm đương quán cà-phê Tùng tiếp nối ông Tùng. Chúng tôi nghĩ tới những tên tuổi danh xưng như định mệnh: Tùng, Thông ở nơi chốn ngàn thông..”.

Lần gần đây nhất tôi trở lại Đà Lạt vào năm 2009 để xây mộ cho song thân. Cùng với một người bạn học cũ vẫn còn ‘tử thủ’ tại Đà Lạt, chúng tôi ghé cà phê Tùng mong tìm lại những giây phút của thời mới chớm bước vào tuổi thanh niên của ngày nào.

Cảnh vẫn như xưa nhưng người xưa còn lại chỉ có vợ chú Tùng. Bà ngồi yên lặng một mình nơi góc cửa, mắt đăm đăm nhìn ra những người qua lại ngoài đường. Tôi nhìn thấy trong đôi mắt đó một nét buồn của hơn một nửa thế kỷ còn đọng lại.

Bà Tùng với nét buồn sau hơn nửa thế kỷ

Một lúc sau, bà quay vào ngồi ở quầy tính tiền. Tôi biết, bà đã quay về với thực tế đời thường của cơm áo, gạo tiền. Cũng là lẽ thường tình, khách nhớ chủ quán chứ chủ cà phê làm sao nhớ hết khách vãng lai. Sau khi tự giới thiệu là khách phương xa trở về Đà Lạt, bà Tùng như cởi mở tấm lòng đã từ lâu chôn kín. 

Nhìn những bức tranh trên tường bà kể lại sau 30/4/75 quán phải ‘cất’ đi vì ‘tự’ thấy vị trí của những bức tranh đó không thích hợp trong buổi giao thời. Nhưng rồi tranh cũng được treo lại đúng vị trí cũ. Lúc đó tôi tự nhiên nghĩ đến quán cà phê Lâm ngoài Hà Nội với những bức tranh được vẽ bởi các nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Sáng, Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng… 

Hỏi thăm về chú Tùng bà cho biết ông qua đời sau vụ tai nạn xe cộ ngoài đường, hỏi về ‘cái chú cao cao, đầu hói’ (là người phục vụ chính của Tùng ngày xưa) bà nói chú ấy cũng đã ‘quy tiên’ rồi. Hóa ra, giờ thì chỉ còn mình bà với cái tên cà phê Tùng đã đi vào lịch sử của Đà Lạt cùng với những nhân vật một thời nổi danh của miền Nam.

Bà Tùng còn nhắc lại thời kỳ quán phát đạt ông Tùng còn mở một quán cà phê thứ hai trên đường Phan Bội Châu, lấy tên là Domino. Cà phê Domino, giá rẻ để phục vụ cho giới lao động chân tay còn cà phê Tùng, đắt hơn, dành cho giới trí thức. Ông Tùng đã xã hội hóa các quán cà phê của ông từ những năm 60, đi trước khái niệm xã hội hóa của thời đại này đến hơn một nửa thế kỷ! 

Tại cà phê Tùng ngày nào, Trịnh Công Sơn đã gặp Khánh Ly, Từ Công Phụng và đám bạn của tôi trong ban nhạc trường Trần Hưng Đạo đã từng mài đũng quần trên ghế cà phê Tùng. Thi sĩ Bùi Giáng cũng đã ngồi nơi đây. Có lẽ ông nhìn bầu trời Đà Lạt âm u qua cửa kính cà phê Tùng để viết hai câu thơ lục bát phá cách trên miếng giấy bạc của bao thuốc lá: 

Quán ngồi mỏi. Nắng chưa lên.
Chợt vui tràn. Thấy còn nguyên sơ đầu.

Xin kết thúc bài viết về cà phê của Đà Lạt sương mù với câu chuyện của một anh bạn thuộc loại ghiền cà phê có hạng. Anh bảo: “Uống rượu thì say mới quậy, nhưng uống cà phê thì quậy rồi mới say!”. 

Theo lý luận thường tình, tôi phản ứng: “Làm gì có chuyện uống cà phê quậy rồi mới say?”.

Anh bạn thủng thẳng đáp: “Thì uống cà phê phải quậy cho tan đường rồi mới uống chứ?!” 

***

Video clip "Đà Lạt Xưa & Nay"

Nguyễn Ngọc Chính