Thái Thanh suốt 15 năm hành nghề ca hát theo kiểu gạo chợ nuớc sông ở quê nhà, dưới chánh thể Cộng Sản. Cô mang tiếng hát ra hải ngọai bằng sự tự tin thấy rõ, dù làn hơi tiếng hát đã hao hụt chút ít, chuỗi ngân không còn nhỏ mức và đều đặn, nhưng âm sắc vẫn còn lảnh lót, vẫn còn loé những ngân vang sáng rỡ.
Lúc hát cô vẫn hăng hái quăng mình trọn vẹn vào phút giây đùa bỡn với tiết điệu và âm thanh. Dù chuỗi ngân có thô rít, nhưng cô vẫn không nao núng, vẫn kéo dài làn hơi để cho làn hơi gợn sóng.
Khi hát tới chổ khá cao hay khi xuống chổ khá thấp lọt ra khỏi âm vực của tiếng hát mình, cô vẫn cứ đưa tiếng hát của mình lướt tới, vẫn quả cảm chuyển giọng, tới đâu thì tới, không sợ tiếng hát gãy vụn hoặc vỡ bể hay sa lầy. Nhìn và lắng nghe cô hát, tôi ngậm ngùi trước sự thành khẩn thiết tha của cô trong lúc cô dâng hiến tiếng hát của mình cho khán giả và nhất là cho lý tưởng của mình mà không cần nhìn lại tuổi đời đang đè nặng trên lưng trên vai mình, không quan tâm cái sinh lực trong tiếng hát của mình đã bị thời gian làm vơi cạn đi ít nhiều.
Tuy nhiên, hôm đó giọng hát của cô chỉ hơi rạn nứt chút ít ở một vài chỗ, phải tinh lắm mới nhận ra. Nhưng mà, đó vẫn còn là một giọng hát đẹp gợi nên vết da rạn quý giá trên nền men bóng của chiếc độc bình.
Hôm đó, cô hát bài "Dòng Sông Xanh" của Johan Strauss, vẫn hứng khởi ngân bằng nguyên âm và vẫn nhún nhảy theo nhịp điệu Valse xôn xao.
Sau đó, Thái Thanh xuất hiện tại Washington D.C và tôi đã nghe vài lời bình phẫm ở lối trình diễn điệu đà và sự diễn tả quá mức của cô.
Tại nơi đây, khi bước ra sân khấu, cô mặc áo chóang lộn như y quan của gánh Hồ Quàng, lại khóac áo chòang như người dơi; lúc hát cô lắc lư hơi nhiều, rồi nhảy loi choi, vung vãi quá nhiều nhiệt tình, nhiều điệu bay bướm thừa thãi. Song dù gì đi nữa, cô vẫn ghi vào ấn tượng mọi người một nghệ sĩ hát bằng tâm tình dâng hiến, bằng trái tim mẫn cảm, bằng cái đẹp muôn màu muôn vẻ của tâm hồn.
Thái Thanh hát hay, điều đó dĩ nhiên rồi, ai mà dám cãi được. Nhưng Thái Thanh còn hát giỏi nữa , bởi vì cô có kỹ thuật hát khá tinh vi.
Nhưng tiếc thay, khi hát ở những chổ hơi cao, cô thường nhốt sâu tiếng hát trong cuống họng nên tiếng hát thanh thì có thanh, nhưng chua ơi là chua.
Từ Thái Thanh lúc đó cô trở thành Thái Chanh một cách ngon ơ. Đây là nhược điểm của cô. Bởi tự luyện tập giọng hát theo lối chầu văn, hát chèo với cách ngoai mồm bẻ miệng nên cô không nắm bắt cách luyện tập theo phương pháp chân truyền của ca sĩ Tây Phương.
Từ lúc đầu, cô không tập rống khi lên cao để tiếng hát được dàn rộng, không mất âm lượng và có thể giữ được âm sắc ngọt ngào. Trong băng nhạc " Thái Thanh : Tiếng Hát Vượt Thời Gian", cô có hát bài Sérénade của Schubert, từ đầu tới cuối, cô xài tòan giọng óc, chua tới rùng rợn luôn.
Nhưng khi hát ở những chổ không quá cao hoặc không quá thấp, tiếng hát cô đẹp tuyệt hẳn lên, như khối ngọc giữ màu trong vẻ sáng, không tỳ vết, không lỗi lầm. Ở những nốt nhạc hơi trầm, tiếng cô đầy và ấm hẵn lên, thập phần quyến rũ.
Qua tiếng hát Thái Thanh, người nghe có cảm tưởng đến ngắm một lạch nước trong chảy thao thao vào một vùng thôn dã thuộc miền trung du của quê Bắc vào thuở tiền chiến.
Nơi đó, có những hình ảnh tiêu biểu như lũy tre xanh rậm bọc quanh làng làm cho khung cảnh ấm cúng và thân mật. Có mảnh ao làng lênh láng nước trong veo, ngày ngày có những cô gái quê đến gánh nước hoặc rửa rau và vo gạo.
Có ngôi đình làng dành cho các cuộc tế lễ thành hòang.
Có ngôi chùa, am mây, miếu mạo...dành cho những khách hành hương. Lại còn thêm bóng đa, bóng chuối, bóng na, những cây cau, những nương khoai..làm cho khung cảnh thêm xanh mát, thêm bóng râm êm ả trong nắng trưa.
Thái Thanh hát những ca khúc âm hưởng dân ca miền Bắc như "Tình Ca", "Tình Nghèo", "Tình Tự Tin", Nụ Tầm Xuân", "Tình Hòai Hương" và "Chú Cuội" của Phạm Duy, "Kiếp Cuội Già" và "Khúc Giao Duyên" của Phạm Đình Chương, "Tình Quê Hương" của Đan Thọ, "Các Anh Đi", "Nhớ Bến Đà Giang" của Văn Phụng đều truyền cảm, đều gợi cái trong trẻo êm đềm của lạch nước mùa xuân, cái tịch mạc thật thơ mộng của cảnh thôn dã nơi quê Bắc.
Vì hát theo lối nhấn từng chữ như lối chầu văn nên cô hát những bài nhạc ngọai quốc như "Célèbre Valse" của Brahms, "Sérénade" của Schubert, "Rêveries" của Robert Schumann đã được đổi thành lời Việt thì lại không sành điệu bằng Mộc Lan, Kim Tước, Châu Hà, Tuyết Hằng, Mai Hương và Quỳnh Giao.
Riêng tôi, tôi chưa thấy ca sĩ nào diễn tả trọn vẹn ý tình qua các ca khúc của Phạm Đình Chương và nhất là của Phạm Duy bằng Thái Thanh.
Ở bài "Tình Ca", khi hát tới câu hát "Tôi yêu tiếng xa mờ", giọng cô sắc vút lên như xuyên vào mối cảm hòai người nghe bằng một luồng gió mạnh, reo xao xuyến trong nội giới chúng ta rất lâu.
nấc làm người nghe bàng hòang dao động cả tâm hồn; chưa có ca sĩ nào diễn tả tuyệt vời cảm xúc như cô ở tiếng đó. Hình như trời sinh Phạm Duy ra để sọan ca khúc cho Thái Thanh hát.
Trong phút hiển linh của thần trí sáng tạo, ông viết những dòng nhạc truyền cảm tột độ mà chỉ có Thái Thanh diễn tả mới đi đến chổ cùng tận của ý tình. Cho nên khi hát bài "Bà Mẹ Gio Linh", Thái Thanh cất tiếng "Hò ơi ới ơi hò", tiếng hò cô ở chổ đó như banh gan xé ruột người nghe, như khơi dậy một vết thương rướm máu của họ.
Tiếng hò sao mà thảm thiết một cách thần tình, làm sao có ai hò vượt qua cô dẫu đương sự có ăn một trăm, một ngàn cót thóc đi nữa.
Ngoài ra, bản "Tình Không Biên Giới" của Văn Lương, "Mấy Dặm Sơn Khê" của Nguyễn Văn Đông, "Sao Đêm" của Lê Trọng Nguyễn, "Tiếng Thời Gian" và "Trở Về Dĩ Vãng" của Lâm Tuyền đều được cô trình bày bằng một tình cãm vừa phải, nhưng rất truyền cảm, rất nghệ thuật.
Nghe Thái Thanh hát các ca khúc âm hưởng dân ca miền Bắc, chúng ta có cảm tưởng được ngắm những bức tranh mộc bản hoặc những bức tranh dân gian bày bán ở chợ quê trong dịp Tết.
Những bức tranh dân gian ấy tô màu loè loẹt và suồng sã, nhưng hàm nhuận ý tình thật mộc mạc, thật thân thương: đỏ như ruột dưa hấu, xanh như mực học trò, vàng như nghệ, lục biếc như đọt chuối hay như lá mạ, tím như nước cốt trái mồng tơi...
Qua tiếng hát Thái Thanh, chúng ta có thể mường tượng đến tiếng sáo diều vi vút vào buổi chiều quê, khi mà ánh tà dương không còn trải trên mặt ao đầm, và sương mỏng bắt đầu theo bóng chiều lan khắp đó đây. Lúc đó, tàn cây, khóm chuối biến dần thành những khối bóng đậm đen như tô bằng mực tàu trong thứ ánh sáng lu lít mù mờ vào lúc chạng vạng. Tiếng sáo mỏng và thanh cứ vi vút từ đầu bửa cơm chiều dưới ánh đèn dầu cho tới khi trăng lên rọi lóng lánh mặt ao đầm mà vẫn chưa tắt.
Thái Thanh có giọng hát thiên phú quý báu như thế, nhưng theo tin đồn thì cô chẳng thận trọng giữ gìn. Cô không kiêng khem trong việc ăn uống. Hễ gặp trái chua là cô ăn mê tơi, ăn ngấu nghiến. Gặp trái chát nhu sung sung để ăn cặp với bún riêu, như mít đẹt nổi mụn cám vàng cô liền cất giấu ngay trong bụng là chỗ không trời không đất... cho gọn ! (NGHE TẢ KHÚC NÀY SAO GIỐNG ĐÔNG CUNG QUÁ CHỜI VẦY NÈ )
Hồi ở bên quê nhà, Kiều Chinh và Thái Thanh là hai nữ nghệ sĩ trình diễn thích giao du với các nghệ sĩ bên sáng tác nổi tiếng trí thức.
Qua ông anh nhạc sĩ Phạm Đình Chương của mình, Thái Thanh ưa giao du với nhóm Cái Bang trong đó có kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, nhà văn Mai Thảo, kỷ giả Lô- Răng Phan Lạc Phúc, nhà văn Thanh Nam, nhà văn Thanh Tâm Tuyền...
Lại thêm có ca sĩ Anh Ngọc, anh bạn đồng nghiệp của cô. Giờ đây Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Phạm Đình Chương và Thanh Nam đã từ trần. Thanh Tâm Tuyền định cư trên vùng vạn hồ thuộc tiểu bang Minnesota. Còn Phan Lạc Phúc ở tận bên Úc. Trong chuổi ngày tàn bóng xế, cô cùng nghệ sĩ dương cầm Nghiêm Phú Phi mở lớp luyện ca.
Từ năm 1995, làn hơi trong tiếng hát Thái Thanh giảm sút quá nhiều. Cô không còn ngân nga được nữa. Nhưng từ cái gốc của cô, có hai chồi măng mới mọc ra, trong thời gian chẳng bao lâu mà trở thành hai cây trúc tương phi yểu điệu xinh tươi.
Mỗi khi lớp lớp sóng nhạc hiện thành cơn gió lướt qua, trúc reo lao xao những tiếng hát làm rung cảm khách mộ điệu khắp bốn phương trời hải ngoại. Đó là nữ ca sĩ Ý Lan và nữ ca sĩ Quỳnh Hương, hai ái nữ của Thái Thanh và minh tinh điện ảnh Lê Quỳnh.
No comments:
Post a Comment