Friday, October 9, 2015

RIÊNG MỘT GÓC TRỜI

Buổi sáng hôm nay tôi thức sớm, nằm lim dim mơ màng nghe tin tức đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA), phát đi từ Hoa Thịnh Đốn. Gần cuối chương trình, cô xướng ngôn Hòa Ái giới thiệu một giọng nam trẻ, thật ấm áp, truyền cảm trong bản nhạc nổi tiếng của Ngô Thụy Miên - Riêng Một Góc Trời :
 
Tình yêu như nắng, nắng đưa em về, bên giòng suối mơ 
Nhẹ vương theo gió, gió mang câu thề, xa rời chốn xưa 
Tình như lá úa, rơi buồn, trong nỗi nhớ 
Mưa vẫn mưa rơi, mây vẫn mây trôi, hắt hiu tình tôi….

 
Tiếng hát dìu dặt vang vang trong buổi sớm tĩnh mịch mùa thu. Ngoài kia sương vẫn chưa tan, không gian còn mờ ảo. Tôi bỗng nhớ đến những ngày sống ở miền thần kinh xứ Huế bên quê nhà. Đã hơn năm mươi năm rồi, những kỷ niệm năm xưa tưởng đã phai mờ theo năm tháng. Nhưng mới hôm qua, bức thư của cô bạn thuở học trò từ nơi xa xôi ấy, đã gợi lại trong tôi những cảm xúc tưởng chừng đã đi vào quên lãng… 

* * *
Cho đến năm Đệ Tứ, khi những nam, nữ sinh chuẩn bị cuộc đua lấy mảnh bằng Trung Học, tôi tình cờ gặp một cô Đồng Khánh trong lớp luyện thi năm ấy. May mắn hơn, chúng tôi cùng ngồi cạnh nhau. Hàng tuần, ngoài giờ học ở mỗi trường riêng biệt, chúng tôi cùng đến lớp luyện thi để trau dồi thêm hai môn có hệ số điểm cao trong kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp : Toán và Pháp Văn. 

Vào hai ngày cuối tuần, chúng tôi lại họp nhau để cùng ôn bài thi. Nhóm chúng tôi có bốn người, hai nam sinh và hai nữ sinh - kể cả cô bạn tôi mới quen có hảo ý cho mượn căn nhà hóng mát ngoài vườn để cùng nhau ôn bài vở… Thuở ấy tôi chỉ là cậu học sinh chân quê, theo cha mẹ từ miền  Nam  Trung bộ “dinh tê” về thành phố Huế. Đối với tôi, đất thần kinh là nơi quyền quý của vua chúa ngự trị một thời; và người dân xứ Huế - nhất là các cô gái áo trắng thướt tha - là những kẻ cao sang thanh lịch. Đã hơn một lần, tôi bắt gặp mình đứng nhìn những cô nữ sinh Đồng Khánh, với dáng dấp thanh tao, với áo trắng bay bay, với chiếc nón bài thơ e ấp. Vào mỗi buổi chiều tan học, họ như đàn bướm trắng bay qua cầu Trường Tiền; hoặc đáp xuống chuyến đò Thừa Phủ để sang sông… Trong ba năm theo Trung Học Đệ Nhất Cấp ở một trường công lập thành phố, tôi chỉ biết lo dùi mài kinh sử kể bắt kịp những năm học chậm trễ trong vùng Việt Minh. Cho nên việc kết bạn với các cô gái, nhất là với các nàng áo trắng tóc dài trường Đồng Khánh, đối với tôi thuở ấy chỉ là giấc mộng…

Đến nay, tôi vẫn chưa quên hình ảnh cậu học sinh cao gầy, hằng cuối tuần “diện” cho mình chiếc nón cối trắng, đôi dép da trắng, vội vã đạp xe đến nhà cô bạn mới quen để cùng “học nhóm” với các bạn. Chúng tôi nêu ra những câu hỏi trong bài, cùng nhau tìm câu giải đáp; hoặc giúp nhau làm những bài tập khó… Cho nên không khí chuẩn bị thi cử đối với chúng tôi không còn căng thẳng, đến nỗi phải than Thi ơi là thi, sinh mi làm chi?” như trong bài hát của Đỗ Kim Bảng rất phổ thông lúc bấy giờ !  

Người ta thường nói : “Học tài thi phận !”. Sau những ngày thi trung học cam go năm ấy, tôi đến xem bảng kết quả và chỉ thấy hai nam sinh trong toán “học nhóm” có tên trên “bảng vàng” mà thôi ! Tôi về nhà thông báo niềm vui với Mẹ, nhưng không dám để lộ nỗi buồn bởi cô bạn học bị hỏng thi. Tôi muốn đạp xe đến nhà nàng để an ủi nàng, nhưng còn ngập ngừng e ngại ! Vài hôm sau, nàng đến nhà tôi để “Chúc mừng anh thi đậu”, nhưng cố không để lộ nét buồn rầu vì thi hỏng như tôi tưởng. Nàng còn nói đùa với nụ cười cay đắng :
- Ánh quen ăn ớt từ nhỏ. Vậy mà kỳ thi này Ánh thấy cay hơn cả ăn ớt ! Thôi đành phải ráng ôn bài cho kỹ để thi kỳ sau, kẻo rớt nữa anh chê học dốt !
Ngưng lại giây lát, nàng nhìn tôi nói tiếp :
- Hôm trước Ánh nghe anh nói sắp theo gia đình vô Sài gòn. Vậy khi nào anh đi ?
Tôi quay mặt đi để dấu nỗi buồn sắp xa Huế, xa nàng… rồi đáp :
- Có lẽ cuối tuần này ba tôi mướn xe đưa cả nhà vào Sài gòn… Hôm nào đi, tôi sẽ đến chào từ giã Ánh. Bằng lòng chứ ?

Nàng gật đầu, buồn bã nhìn tôi, đoạn dắt xe ra cổng… Khi đi ngang cây ngọc lan, nàng nhìn lên, khen hoa lan thơm quá ! Hôm ấy không có mẹ ở nhà nên tôi vội leo lên cây, hái một bông hoa đẹp nhất trao cho nàng. Nàng nhìn tôi mỉm cười, cài cánh hoa lan lên mái tóc, đoạn đạp xe ra về.
Buổi tối trước khi xa Huế, sau khi xin phép Mẹ đi gặp bạn bè để chào từ biệt, tôi đạp xe đến nhà Ánh. Đó là một đêm mùa hạ, trăng lên cao, thật sáng, thật đẹp nhưng trong lòng tôi thật buồn bã. Ngày mai tôi sẽ rời xa đất thần kinh nhiều kỷ niệm này, xa người bạn gái mà  tôi đã bắt đầu cảm mến. Tôi tự hỏi : “Biết bao giờ mới gặp lại nhau ?”. Khi đến trước cổng, tôi nhìn vào thấy nàng đang ngồi học bài, đầu cúi thấp, mái tóc thề buông phủ bờ vai. Có lẽ nàng nghe tiếng động, ngẩn lên trông thấy tôi, vội bước ra nói nhỏ : 
- Sao anh lại đến giờ này, tối rồi ! Không chờ đến ngày mai được sao ?
Tôi im lặng, cùng nàng ngồi xuống chiếc ghế đá trong vườn, dưới cây bông sứ đang đơm hoa thơm ngát. Nàng nói tiếp, giọng như thì thầm :        
- Anh ngồi xuống đây nói chuyện... Vào nhà ba me thấy, la Ánh lắm đó. Sao thi xong, anh không đến chơi ?
Tôi cảm thấy bối bối trước mặt cô bạn đang niềm nỡ hỏi chuyện, vội giải thích :
-  Ngày mai tôi với gia đình đi Sài gòn sớm, nên chỉ còn đêm nay đến thăm Ánh thôi...
Cô bạn gái nhìn tôi sững sờ :
- Mai anh đi à ? Vậy bao giờ anh trở lại ?
Tôi ngập ngừng trả lời, giọng bối rối :
- Tôi theo ba me vào ở hẳn trong Sài gòn... Đi xa, chắc sẽ nhớ Huế, nhớ các bạn lắm...

Bỗng dưng nàng im lặng, đầu cúi thấp, kín đáo lau nước mắt, giọng nghẹn ngào :

- Ánh khổ lắm anh biết không ? Vừa mới đau buồn vì hỏng thi, bây giờ lại nghe tin anh đi xa. Vào Sài gòn nhớ viết thư cho Ánh. Đừng quên bạn cũ... anh hỉ ?

Tôi chợt thấy tim mình se thắt lại. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay mềm mại, ấm áp của nàng. Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau thật lâu. Ðâu đó trong vườn, có tiếng giun dế rỉ rả, và xa xa tiếng chó sủa vu vơ dưới ánh trăng khuya… Bỗng từ trong phòng khách có tiếng chuông đồng hồ thong thả gõ nhịp. Từng tiếng ngân nga, vang vọng, như muốn phá tan không khí tĩnh mịch trong đêm vắng ở khu thành nội cổ kính này. Tôi luyến tiếc buông bàn tay bé nhỏ và lạnh lẽo của nàng, đứng lên an ủi : 

- Thôi tôi về nhé. Nhớ ôn bài cẩn thận cho kỳ thi sắp tới ! Thế nào Ánh cũng thi đậu kia mà. Khi đó, đừng quên viết thư báo tin vui nhé !

Nàng tiễn tôi ra cổng, giọng buồn buồn :

- Ánh có linh cảm sẽ không còn gặp lại anh nữa… Thôi anh về đi. Mong anh đừng quên Ánh.

Thế nhưng, cuộc sống tấp nập ở Sài gòn đã khiến tôi quên hẳn việc viết thư liên lạc với cô bạn đất thần kinh. Độ một tháng sau, tôi nhận được thư nàng, thăm hỏi và báo tin nàng… lại thi hỏng. Bố mẹ khuyên nàng hãy gác lại chuyện thi cử để đi tìm việc làm, và còn sửa soạn chuyện lấy chồng vào năm tới... Tôi trả lời ngay cho nàng, khuyên đừng buồn, và cứ lo đi tìm việc làm để khỏi trái ý cha mẹ... Còn chuyện tương lai của nàng, tôi không dám có ý kiến, dù cảm thấy xót xa trong lòng... 

* * *
Một thời gian sau đó, chốn phồn hoa đã khiến tâm hồn chàng thanh niên là tôi từ một tỉnh miền Trung đã di chuyển vào đô thành dần dần thay đổi. Trái tim tôi bỗng nhiên rung động với những cảm xúc mới, từ những tà áo màu thướt tha, những mái tóc uốn cong xinh đẹp, những thân hình quyến rũ... Tuy nhiên những lá thư của người bạn gái từ xứ Huế xa xôi vẫn đều đặn đến với tôi; và thỉnh thoảng tôi cũng hồi đáp thư nàng. Hai năm sau, một người bạn cũ từ Huế vào thấy tôi vẫn tiếp tục viết thư cho Ánh, bèn cười chế nhạo :

- Nàng đã lấy chồng rồi ông ơi ! Chớ có lãng mạn quá... Ðừng viết thư cho bà ấy nữa kẻo thằng chồng biết được, nó sẽ vào đây thanh toán ông đó nhé !
    
Tôi nghe lời người bạn, và từ đó ngưng viết cho nàng. Một hôm tôi nhận được thư của Ánh, dày hơn những thư khác, bên trong chứa đựng những lời ngọt ngào lẫn trách móc, kèm theo đóa ngọc lan mà năm xưa tôi đã hái tặng nàng. Ðóa hoa nay đã khô héo, nhưng chưa tàn lụi theo năm tháng, kể từ ngày tôi hái ở cổng nhà trước khi xa Huế, xa nàng...

Nhưng rồi, cuộc đời tôi di chuyển như cơn lốc. Tôi thi vào học trường Hành Chánh Sài Gòn. Ra trường tôi lập gia đình và một tuần sau vào thụ huấn quân trường Thủ Đức. Biệt phái về lại Bộ Nội Vụ để rồi được bổ nhiệm đi làm việc ở các địa phương. Từ quận Lộc Ninh, tôi về Định Quán, rồi Xuân Lộc… Trong cơn lốc của cuộc đời di chuyển như thế, những lá thư xưa của Ánh với đoá hoa ngày cũ cũng thất lạc, tan biến theo cát bụi thời gian.

Sau biến cố 1975, tôi đi tù “cải tạo” từ  Nam  di chuyển ra Bắc… Sau đó, tôi ra khỏi trại, trở về Sài Gòn sống thêm mười năm nữa… Và rồi, như những cánh chim di thê phải tìm đất sống còn, tôi làm đơn xin đi tỵ nạn và được nước Mỹ mở rộng vòng tay cưu mang. Với tôi, cuộc sống hoàn toàn thay đổi từ đây… Ngày trở về quê hương, trong một lần ra Huế, tôi đến thăm người bạn cũ. Lúc tôi chào từ giã, anh bạn cho biết Ánh vẫn ở nhà cũ của cha mẹ nàng năm xưa… Sau đó tôi thuê taxi để tìm đến nhà nàng… Người tài xế nghe nói địa chỉ của Ánh, nhìn tôi hỏi :

- Chắc sau “giải phóng”chú chưa về lại Huế ? Đâu còn đường Đinh Bộ Lĩnh nữa ! Mà chú nói muốn đến hồ Tịnh Tâm ? Nơi đó có gì đẹp để “tham quan”, hay chú tìm ai ?

Những câu hỏi của người tài xế trẻ có vẻ tò mò, nhưng cách nói của anh ta đầy vẻ quan tâm đến người khách phương xa… Tôi thành thật đáp :

- Tôi muốn đến thăm người bạn gái thuở thiếu thời. Có lẽ cũng đến hơn năm mươi năm tôi chưa gặp lại…

Anh lái xe nhìn khách đầy ngạc nhiên, thành thật “góp ý” :

- Theo cháu nghĩ, chú làm một công việc vô bổ, kết quả chỉ khiến chú đau buồn thôi. Nếu cháu chở chú đến đúng số nhà đó mà không có người bạn gái cũ, thì chú sẽ đau buồn ra về. Còn  nếu nhà có người, một bà tóc bạc bước ra nheo mắt nhìn chú, và chú nhận ra người bạn gái ngày xưa, thì chú cảm thấy đau lòng và thất vọng không ?

Anh ta chờ cho khách có vẻ “thấm” với những lời góp ý thẳng thắn và hợp lý đó, rồi tiếp lời :

- Thôi, chú cho địa chỉ nhà hay khách sạn để cháu chở chú về nơi đó bây giờ ! 

Bỗng dưng, lời nói của anh tài xế trẻ - có lẽ trẻ hơn thời gian tôi xa người bạn thuở học trò năm xưa - đã khiến lòng tôi nguội lạnh ! 

Tôi bước vào xe, ngã người trên băng ghế sau, im lặng và buồn bã. Tâm trạng của tôi lúc ấy cũng giống như chàng Từ Thức ngày xưa khi trở về trần, không còn tìm ra cảnh cũ người xưa! 

* * *
Huế ngày…
Thưa anh,                                                                                                                                
Đã lâu lắm, có lẽ cũng hơn năm mươi năm, tôi mới viết thơ này cho anh. Cũng do một tình cờ tôi mới biết địa chỉ của anh để gởi lá thư cuối cùng sau hơn nửa thế kỷ bặt tin ! 
Năm ngoái, nhân buổi họp mặt bạn học cũ, người bạn thân của anh đã cho tôi địa chỉ này. Anh ấy còn cho biết anh từng có ý định ghé thăm tôi trong một chuyến về du lịch Việt  Nam  ! Một năm mong chờ, vô vọng. Một năm suy nghĩ, tủi thân. Và sau một năm dài đủ để cõi lòng lắng dịu, tôi mới can đảm viết cho anh.
Năm ấy, tôi thi hỏng, lòng nặng trĩu đau buồn. Nỗi buồn “thi không ăn ớt thế mà cay”, cọng thêm mối u sầu do chia cách tình bạn thân thiết thuở đầu đời… tất cả đã khiến tôi chán chường vô kể. Để rồi sau đó, vâng lời ba mẹ, tôi đi lấy chồng. Và cũng như Cô Lái Đò của nhà thơ Nguyễn Bính “Chẳng lẽ ôm cầm chờ đợi mãi / Cô đành bội ước với tình quân / Bỏ thuyền bỏ lái bỏ dòng sông…”. Tôi lấy chồng, nhưng vẫn về ở ngôi nhà cũ với ba me, để chồng khỏi bận tâm khi đi hành quân xa ! Cho nên dòng sông Hương êm đềm thuở ấy đã níu kéo tôi nơi chốn cố đô thâm u, suốt cả cuộc đời thanh xuân cũng như lúc tuổi đời xế bóng…
Đã năm mươi năm qua tôi vẫn sống vò võ nơi đây, kể từ khi anh bỏ Huế, không bao giờ trở lại thăm người bạn bạn cũ nơi đất thần kinh ! Rồi khi miền Nam thất thủ, người dân lũ lượt ra đi. Và cũng như họ, anh đã đến đất Mỹ, sống trong bầu không khí tự do như gió thoảng, như chim bay ! Và trong niềm hạnh phúc nơi thiên đàng hạ giới ấy, có bao giờ anh chạnh lòng nghĩ đến những cuộc sống hẩm hiu của người bạn cũ nơi quê nhà ?   


Tôi đọc hết lá thư của Ánh, người bạn gái thuở thiếu thời, thẫn thờ nhìn ra bầu trời qua cửa sổ phòng ngủ. Cơn gió mát từ biển thổi vào làm vơi đi những ưu tư vừa dấy lên trong lòng tôi. Hơn hai mươi năm sống nơi xứ người, tôi hầu như quên đi những khổ đau của chính cuộc đời mình trong quá khứ. Với cuộc sống ổn định hiện tại, tôi bỗng lãng quên bạn bè, đồng môn thân thiết ở quê nhà. Thỉnh thoảng tôi nhận được tin một vài người bạn bị bệnh trầm kha; hoặc có người đã ra đi về miền miên viễn xót xa ! Chúng tôi đón nhận, thăm hỏi, chia buồn với tang gia… Kỳ dư, tôi không biết gì về các bạn khác hiện đang sống trong cảnh nghèo khó hẩm hiu, đi làm thuê làm mướn cực nhọc… Có thể họ đang ở trong một thôn xóm keo cư ở miền Hậu Giang. Có thể họ đang sống vất vả trên một mảnh đất khô cằn sỏi đá ở Trung Việt. Đã lâu không ai biết tin tức gì về họ để có thể thăm viếng, giúp đỡ lúc họ túng quẫn ngặt nghèo! Bây giờ họ đang ở một góc rời nào đó trên quê hương.

Lá thư của Ánh đã đến với tôi thật bất ngờ. Nó như cánh chim không mệt mỏi, đã vượt qua nửa vòng trái đất, đánh thức trong tôi nỗi khắc khoải ưu tư… Trong buổi sáng sớm hôm nay, nghe bản nhạc tình cảm thiết tha của Ngô Thụy Miên, tôi chợt nhớ đến ánh mắt buồn ray rức của cô bạn năm nào, khi tôi từ biệt nàng để vào nơi phồn hoa đô hội đất Sài gòn năm ấy. Và trong lá thư vừa đến tôi mấy hôm trước đây, những lời trách móc của người bạn gái năm xưa phải chăng cũng giống như tâm trạng của tác giả Riêng Một Góc Trời mà tôi đã nghe được buổi sáng sớm hôm nay :  

 
Người vui bên ấy, xót xa nơi này, thương hình dáng ai 
Vòng tay tiếc nuối, bước chân âm thầm, nghe giọt nắng phai 
Đời như sương khói, mơ hồ, trong bóng tối 
Em đã xa xôi, tôi vẫn chơi vơi, riêng một góc trời…



Tam Bách ĐBT

No comments:

Post a Comment