Hàng ngồi: Phạm Hòa, Trần Ngọc Diệp, Chính, Thầy Giao, Kim Thoa, Lê Thị Bé, Nguyễn Thị Tỳ và một bạn không nhớ tên.
Nơi sinh hoạt và gặp gỡ của các bạn CHS/PBC liên lớp 65-72
Tuesday, August 3, 2021
Bình Thuận, Những Năm Tháng Ly Loạn 1955-1975 - Qua Những Nẻo Đường Bình Thuận - Mường Giang
Ngày 7-7-1955, đánh dấu sự thống nhất VNCH từ Bến Hải vào tận Cà Mâu,
làm cho đồng bào thêm phấn khởi, tích cực ủng hộ Chính Phủ Quốc Gia,
nhất là các tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú thuộc Liên Khu V cũ của Việt Cộng.
Tại Bình Thuận, ngoài 4800 quân nhân người Nùng thuộc Sư Đoàn 3 Khinh
Chiến của Đại Tá Woàng A Sáng từ Bắc Việt vào đóng tại Sông Mao, còn có
vài chục ngàn đồng bào các tỉnh Quảng Yên, Hải Ninh, Thanh Háo, Nghệ
An... di cư tới lập nghiệp khắp tỉnh, kể cả thị xã Phan Thiết. Trong
giai đoạn 1954-1955, nhiều biến cố chính trị của đất nước, có liên quan
mật thiết tới tỉnh Bình Thuận. Chính trung tá tỉnh trưởng lúc ấy là
Nguyễn Quang Hoành, được lịch sử coi như là một trong những nhân vật
giúp Thủ Tướng Ngô Đình Diệm vượt qua sóng gió, khi đối đầu với Tướng
Nguyễn Văn Hinh. Nhờ các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa... tuyên
bố ly khai chống Trung ương, đã gây áp lực, làm cho Bảo Đại phải triệu
hồi Tướng Hinh về Pháp, tạo dịp cho Thủ Tướng Diệm cử Tướng Lê Văn Tỵ
lên nắm quyền tổng tư lệnh Quân Đội Quốc Gia VNCH. Ngày 2-12-1954, một
biến cố khác cũng không kém phần quan trong tại Bình Thuận đã ảnh hưởng
tới sự chỉ huy quân đội sau này; đó là việc tỉnh Bình Thuận nói đã nhận
lệnh chính phủ không cho đoàn quân xa của Pháp về Sài Gòn, trong khi thì
lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu lại ra lệnh cho phép. Những dấu hiệu ban đầu
của một giai đoạn lịch sử, cho thấy người Bình Thuận rất cương quyết,
biết phân biện chính tà, cho nên không ai lạ khi biết tại Trung Phần
suốt 20 năm lửa loạn dù VC có bẻ cong ngòi bút dựng đứng trăm điều rằng
là dân chúng, học sinh, các vị tu hành luôn là người của chúng, nhưng
lịch sử cũng vẫn là lịch sử, tỉnh Bình Thuận vẫn là tỉnh duy nhất tại
miền Trung chống Việt Cộng tới răng, nhất là trận Tết Mậu Thân, Mùa Hè
1972, Năm 1973 ký hiệp ước hòa bình và trên hết là những ngày tháng Tư
máu lệ, Bình Thuận đã chiến đấu tới khi không còn chiến đấu được, mới di
tản vào Vũng Tàu để lại tiếp tục chống giặc cho tới ngày 30-4-1975 thì
bị Dương Văn Minh bắt buông súng rã ngũ.
1-CÁC ĐỜI TỈNH TRƯỞNG TỪ 1950-1975:
Theo tài liệu của những công chức kỳ cựu tại địa phương như Chủ Sự phòng
Quân Vụ Đinh Trọng Chuyên, thuộc Ty Nội An, chủ Sự Phòng Tài Chánh Đổ
Xuân Tài, kể cả GS Nguyễn Thanh Tùng, hiệu trưởng trường Trung Học Phan
Bội Châu và Chánh Sở Giáo Dục, thì các vị tỉnh trưởng Bình Thuận từ năm
1950-1975 gồm có :
- Ô. Trần Đình Mai, Tỉnh Trưởng BT từ 1949-1950
- Ô. Nguyễn Văn Trác, từ 1950-1953, cũng là người đã sáng lập trường Trung Học Bình Thuận từ năm 1952.
- Trung Tá Nguyễn Quang Hoành, tù 1953-1955
- Thiếu Tá Thái Quang Hoàng, từ 19551956
- Trung Tá Nguyễn Thanh 1956.
- Ô. Hồ Đắc Khương 1956, Phó Tỉnh Trưởng Lưu Bá Châm
- Ô. Lưu Bá Châm, tỉnh trưởng từ 1956-1959, Tôn Thất Tương, phó tỉnh trưởng.
- Ô. Lương Duy Ủy, TT năm 1960, Tôn Thất Tương vẫn là phó tỉnh trưởng.
- Trung Tá Nguyễn Quốc Hoàng, từ 1960-tháng 11-1963
- Đại Tá Nguyễn Quang Hoành TT lần 2, tứ 11-63 tới 1964
- Đại Tá Đàm Văn Quý từ 1964-1965
- Trung Tá Đinh Văn Đệ từ 1965-1967
- Trung Tá Nguyễn Khắc Tuân từ 1967-1968
- Đại Tá Đàng Thiện Ngôn, từ 1968-1969
- Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, từ 1969 tới 19-4-1975, phó tỉnh trưởng là Đốc Sự Hành Chánh Phạm Ngọc Cửu.
Trong các vị tỉnh trưởng Bình Thuận, Trung Tá Nguyễn Thanh, Đại Tá
Nguyễn Quang Hoành (lần 2) và Đại Tá Đàm Văn Quý, chỉ có tính cách xử lý
tạm thời ngắn hạn. Ông Lưu Bá Châm, Trung Tá Nguyễn Quốc Hoàng và Đại
Tá Ngô Tấn Nghĩa. Đại Tá Nghĩa giữ chức vụ lâu nhất cũng là vị tỉnh
trưởng cuối cùng, ít nhất đã mang lại an ninh và những ngày thanh bình
cho dân chúng Bình Thuận, tới tháng 4-1975.
QUẬN TRƯỞNG KIÊM CHI KHU TRƯỞNG:
+ Quận Hàm Thuận: 1962-1965 Trung Úy Lê Phước Sáng, 1965-1967 Đại Úy Lê
Văn Xe, 1967-1968 Đại Uý Lê Văn Trạch, 1968-1970 Đại Uý Lê Văn Cậy,
1970-1971 Đại Uý Lan, 1971-1974 Thiếu Tá Hàng Phong Cao, 1974-4/1975
Thiếu Tá Dụng Văn Đối. Năm 1975, hai Thiếu Tá Đối và Cao đều được đề
nghị thăng trung tá. Phó Quận Trưởng HC thời Thiếu Tá Đối là Đốc Sự
Nguyễn Đức Khiến, chi khu Phó, Đại Úy Lê Viết Lợi.
+ Quận Thiện Giáo: 1963-1965 Đại Úy Lê Quang Mỹ tử trận cùng với Chuẩn
Uý Ngọ - Khóa 19 DPQ, khi VC tấn công Quận), 1965-1970 Đại Úy Trọng,
1970-1972 Thiếu Tá Hồ Viết Lượng, 1973 tới 8-41975 Thiếu Tá Lê Văn
Thông. Theo Đại Úy Mai Xuân Cúc, DDT 948/DPQ có trách nhiệm giữ cầu Phú
Long, bảo vệ một Khẩu Đội Pháo Binh đóng trong trường Nông Lâm Súc, thì
sáng 8-4-1975, Thiếu Tá Thông, Đại Úy Lê văn Tuân và nhiều sĩ quan trong
chi khu Thiện Giáo, dùng xe trà trộn theo đoàn quân xa của tàn quân từ
miền Trung để trốn về Sài Gòn, thì bị ĐĐ 48 chặn hỏi và được trả lời là
về họp tại Tỉnh. Theo Đại Uý Đặng Vũ Đàn, thì sau đó Đại Úy Mai Vi
Thành, TDT/TD230 làm XLTV Chi Khu Thiện Giáo, tới ngày 15-4-1975, được
lệnh di tản về đóng tại Cầu Bến Lội, qua tới Tân Phú Xuân. Quận Thiện
Giao tan hàng từ ngày đó. Chi khu phó với ThT Thông là Đại Úy Lê Văn
Tuân, Phó QT. Hành Chánh là Đốc Sự Nguyễn Trọng Chống.
+ Quận Hải Long: 1967-1974 Trung Tá Kiều Văn Út, 1974-1975 Thiếu Tá Hàng
Phong Cao, chi khu phó Đại Uý Vương Thành, phó QT là Đốc Sự Mai Tường.
+ Quận Phan Lý Chàm: 1967-1968 Thiếu Tá Lương Vận, 1968-4/1975 Thiếu Tá
Đặng Chánh Anh, Chi khu phó Thiếu Tá Đổ Phượng Giá, phó QT. HC Đốc sự Ya
Pha.
+ Quận Hòa Đa: 1965-1968 Đại Úy Đổ Quang Mẫn (anh ruột cầu thủ quốc tế
Đổ Quang Thách), 1968-1969 Trung Tá Lại Văn Xuân (Khóa 6 SQ. Đà Lạt),
1969-1974 Thiếu Tá Dụng Văn Đối, 1974-4/1975 Trung Tá Kiều Văn Út, phó
QT. HC Đốc Sự Pham Ngọc Thành (chết trong tù cải tạo).
+ Quận Hải Ninh: 1966-1969 Đại Úy Woàng A Thông, 1969-1075 Trung Tá Diệp Sắng Cảnh, Phó QT Đốc Sự Đắc Hữu Thiện
+ Quận Tuy Phong: 1959-1961 Nguyễn Bá Giản, 1961-1966 Trung Úy Nguyễn
Đình Chi, 1966-1968 Thiếu Tá Bùi Quang Huỳnh, 1968-1970 Thiếu Tá Nguyễn
Viết Mùi, 1971-1972 Thiếu Tá Nguyễn Văn Vân, 1972 Thiếu Tá Lê Phú Nhuận,
1972-1973 Thiếu Tá Nguyễn Thanh Xuân (tù vì tham nhũng), 1973-4/1975
Thiếu Tá Hà Văn Thành, Phó QT.HC Đốc sự Lâm Quang Chân (chết tù VC).
+ Bộ Chỉ Huy Địa Phương Quân Bắc Bình Thuận: Đại Tá Lại Văn Khuy, liên
đoàn trưởng Liên Đoàn 925 DPQ/BT (gồm Tiểu Đoàn 248 của Thiếu Tá Lê Văn
Trung (sau do Thiếu Tá Xuân) và Tiểu Đoàn 212 của Thiếu Tá Quân).
+Ty Cảnh Sát Quốc Gia: 1964-1968 Vĩnh Dự (chết tại Huế Tết Mậu Thân),
1968-1973 Trung Tá Hồ Đức Nhị, 1973-4/1975 Trung Tá Phan Trần Bảo.
2--NHỮNG CHIẾN SĨ BIỆT CHÍNH ĐOÀN, TRONG VÙNG XÔI ĐẬU BÌNH THUẬN, TỪ 1955-1975:
Trước năm 1970, nhìn trên bản đồ hành quân của tỉnh Bình Thuận và đếm
từng cái ô vuông được tô các màu xanh vàng đỏ, chúng ta có thể biết phần
nào các căn cứ của Việt Cộng. Từ đó có thể phân loại ra từng khu vực A
có an ninh, B là vùng xôi đậu và C khu vực mất an ninh hoàn toàn, do
địch kiểm soát nên còn được gọi là vùng oanh kích tự do hay Free Strike.
Hành quân trong vùng đồi cát hoang vu của mật khu Lê hồng Phong hay
miền rừng núi chập chùng hiểm trở tại các căn cứ Nam Sơn, Mây Tào,trong
lòng chảo sông Quao, La Ngà hoặc các vùng đồng bằng, cao nguyên tại Tà
Dôn, Tà Cú,Ba Hòn, Tam Giác... có Kinh, Thượng, Chàm, Nùng sống lẫn lộn,
thật sự người lính Quốc Gia không biết ai là địch hay bạn. Ngay trong
các vùng được gọi là A tại thị xã Phan Thiết hay vùng B ven biển như
Bình Lâm, Chí Công, Thiện Khánh, Chợ Lầu, Phú Khánh, Đại Tài, Đức Long,
cách trường học, trạm phát thuốc, trụ sở ấp và đồn Dân Vệ không xa là
mấy, bên con đường ngăn hai thôn xóm, trên con rạch nhỏ, giữa cảnh nghèo
xơ xác dưới mái tranh hay túp lều lụp sụp, đã là những vùng xôi đậu.
Trong hiểm họa chiến tranh, thêm vào sự thiệt thòi khi nhận lãnh viện
trợ Mỹ hay của chính phủ VNCH trước đây, do sự tắc trách của cán bộ nên
đã tiếp tay đẩy đồng bào về phía Việt Cộng. Lửa đạn đã biến người dân
nông thôn thành kẻ du mục, bỏ vườn ruộng nhà cửa và mồ mả tổ tiễn đi tìm
những chốn yên lành, để tránh VC tàn ác dã mang và bom đạn của phe
chính phủ, cũng một phần lớn biến nông thôn thành vùng xôi đậu không
biết đầu mà mò.. Từ tháng 11 /1969 Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, trưởng Phòng
2/QĐ2 về thay Đại Tá Đàng Thiện Ngôn làm tỉnh trưởng Bình Thuận. Nhờ
kinh nghiệm và nhiệt tâm cộng với các chiến thuật, hữu hiệu như khai
quang quốc lộ, củng cố đồn bót, cơ sở hoạt động cùng thực hiện kế hoạch
dùng mìn Clymore làm hàng rào phòng thủ tự động các ấp chiến lược ban
đêm, ngăn sự xâm nhập và tiếp tế cho cán binh VC. Chiến thuật thần sầu
trên, lần đầu tiên đã được giao cho Đại Đội 238 Địa Phương Quân cơ hữu
của quận Phan Lý Chàm, do Trung Úy Lê Văn Mùi làm đại đội trưởng và
Thiếu Úy Ngô Trúc Khánh làm đại đội phó (sau giao cho Đại Úy Đặng Phiên
làm đại đội trưởng. Đặng Phiên khóa 20 B, SQ Thủ Đức, năm 1977 mất tích
cùng với Đại Uý Nguyễn Văn Ba, khi vượt ngục tại Lương Sơn), tuy chỉ mới
trắc nghiệm thi hành nhưng đã thành công mỹ mãn. Cũng tại Chi khu Hòa
Đa từ 1969-1975, ngoài các Đại Đội Dân Sự Chiến đấu thuộc Trại Lực Lượng
Đặc biệt ở Lương Sơn , Sông Lũy thiện chiến, còn có nhiều đơn vị DPQ
hiển hách như ĐĐ238 hoạt động tại Liêm Bình, Long Lễ, Thoại Thủy, Minh
Mỵ, Hậu Quách Đại Đội 119/ĐPQ của Trung Úy Thanh hoạt động tại Lâm Lộc,
Phan Rí Cửa. ĐD296/DPQ cơ hữu quận Hòa Đa của Trung Úy Phan Thế Trung,
sau là Trung Uý Nguyễn Văn Ngư, tại địa bàn Liêm Bình, Long Lể.
DD730/DPQ của Trung Úy Nguyễn Văn Thứ tại ngã ba Hội Tâm Duồng (Thượng
Văn). DD 948/DPQ của Đại Úy Đổ Phượng Gíá làm DDT, tháng 6/1972 lên
Thiếu Tá làm Chi Khu Phó Phan Lý Chàm, nên Đại Úy Mai Xuân Cúc ở Tuy
Phong về thay thế, hoạt động tại Chợ Lầu, Hiệp Hòa, Tịnh Mỹ... Nhưng yếu
tố quan trọng nhất của sự thành công, đem lại an ninh và hạnh phúc cho
đồng bào Bình Thuận từ thị xã Phan Thiết tới khắp các vùng nông thôn,
vào những năm cuối cùng 1970-1975, chính là sự điều hợp Quân, Cán Chính
hữu hiệu trong vùng xôi đậu của Bình Thuận. Đây cũng chính là các căn cứ
cũ của Việt Minh, đã có từ chín năm kháng chiến chống Pháp, được gọi là
Carte Rougeole. Tại VNCH, từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, những người
chiến sĩ áo đen qua danh xưng CÔNG DÂN VỤ đã chính thức hoạt động đơn
độc trong vùng địch chiếm hay tạm đóng. Theo thời gian và tình hình
chính trị, quân sự, người Công dân vụ đổi tên nhưng không đổi màu áo và
vùng. Họ là Biệt Chính Đoàn, Bình Định Phát triển rồi Xây Dựng Nông
Thôn. Nhưng dù được khoát một cái tên nào đó, các chiến sĩ áo đen cũng
vẫn có nhiệm vụ bất biến: Đó là sống hòa nhập với dân chúng nông thôn,
biến họ từ thù thành bạn, tạo niềm tin vào chính nghĩa nhân ái của quốc
dân VN. Đây là một tổ chức bán quân sự, tương tự như các đoàn GAMO, tức
là các đoàn Hành Chánh quân thứ lưu động ở Bắc Việt nhưng có cái khác
biệt là Gamo chỉ hoạt động trong vùng an ninh hay đã bình đinh, còn
Người Chiến Sĩ Áo Đen VNCH thì sống ngay trong lòng đich hoặc xôi đậu
với may rủi là do số mạng. Sống độc lập, đánh chớp nhoáng, tuỳ cơ ứng
biến, khôn khéo mua chuộc và lòng thương của đồng bào, chính là cái phao
cứu mạng. Lấy máu làm mực để cùng với mọi người viết lên những trang
chiến sử, sinh và nầm xuống trên quê hương mình, họ đáng để cho đời vinh
danh dù chỉ bằng máu, hoa và nước mắt của người Việt đang sống lưu vong
buồn thảm. Năm nay một mùa hạ lại đang qua, với những sợi mưa mây lất
phất. Thời học trò đã mất, tuổi lính cũng không còn nhưng tiếng ve sầu
và cánh phượng đỏ chói suốt đời đeo đẳng vấn vương. Trong nỗi buồn của
mấy chục năm rồi, tháng Tư năm nay sao mà thay đổi kỳ lạ. Thì ra dâu bể
cuộc đời tưởng sẽ làm quên tất cả nhưng thật ra ta đã không quên bất kỳ
một điều gì của Phan Thiết - Bình Thuận. Nắng chiều buông xuống mặt biển
cô quạnh, trong cái vắng lặng nơi chốn quê xa, lúc này mới thật thấm
thía về lời ca tiếng nhạc của người ca sĩ qua bản “Chiến Sĩ Vô Danh“ của
Phạm Duy:
”Mờ trong bóng chiều,
Một đoàn quân thấp thoáng
Núi cây rừng, lắng tiếng nghe hình dáng
Của người anh hùng“.
Hai mươi năm chinh chiến, đâu đâu cũng có mặt những chiến sĩ hào hùng
của QLVNCH như Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc
Biệt, Thiết Giáp, Bộ Binh kể cả Địa Phuơng Quân, Nghĩa Quân. Cũng vậy,
tại những tuyến lửa cực kỳ nguy hiểm không thua kém gì các chiến trường
lửa đạn. Những người lính áo đen âm thầm hoạt động bên những thần tượng
của quân lực, tiếp cận, thông tin và mở rộng vòng tay đón đồng bào ra
vùng mê lụy, chết chóc. Họ là những chiến sĩ vô danh của QLVNCH, đã có
mặt khắp nước cũng như tại Bình Thuận từ 1955-1975, đã chết, bị tù đày
hành hạ dã mang như bất cứ một người lính nào của miền Nam, sau ngày
30-4-1975. Chỉ riêng việc Hà Nội ra giá “Một cán bộ Xây Dựng Nông Thôn
đổi năm lính Dù” đủ để chúng ta nhắc nhớ và ái mộ những người một thời
xả thân vì đại nghĩa dân tộc.
A-BÌNH THUẬN VÙNG XÔI ĐẬU:
Tháng 4/1954 quân Pháp tại Điện Biên Phủ đầu hàng lực lượng Việt Minh
kháng chiến. Ngày 20-7-1954, hiệp định đình chiến Genève chia đôi VN
được Pháp, Anh, Liên Xô và Trung Cộng dàn dựng ký kết. Lần nữa Cộng Sản
quốc tế Hà Nội qua đồng bọn là Nga Tàu đã cướp công thắng giặc của toàn
dân trong chín năm đấu tranh, ngập tràn máu lệ như chúng đã từng cướp
chính quyền vào mùa thu năm 1945. Đất nước thân yêu lại phân hai tại
dòng sông Bến Hải dù Hoa Kỳ và chính phủ Quốc Gia VN lúc đó do Quốc
Trưởng Bảo Đại lãnh đạo, không chấp nhận, nên không ký kết bản hiệp ước.
Cũng kể từ đó biến động triền miên, người của hai miền thảm thê gục ngả
trước đạn súng và chủ thuyết ngoại bang. Với quyết tâm dùng bạo lực
cưỡng chiếm nửa phần đất còn lại của quốc dân, Cộng Sản quốc tế Hà Nội
chơi trò bổn cũ soạn lại, lập mặt trận Ma Giải Phóng Miền Nam, gọi nôm
na là Việt Cộng. Đây là cái bình phong để Hà Nội công khai tiếp tục quậy
phá dân lành VNCH, qua cái đám nằm vùng, gài người sau khi vũ khí được
chôn giấu kỷ để tập kết cuội. Thay Pháp tại Đông Dương từ 1955-1975,
người Mỹ với chiến thuật, chỉ cần có mặt cắm dùi, chứ không tạo chiến
thắng với phe Cộng Sản. Trong khi sau lưng Hồ và Hà Nội cả một băng đảng
Mác-Lê giúp rập từ Trung Cộng, Liên Xô, Đông Âu, Cu Ba cho tới các đảng
Cộng Sản Tây phương tại Pháp, Ý và ngay cả Hoa Kỳ. Ngày nay nhân loại
dễ nào quên câu nói bất hủ của Jean Paul Sartre “Chỉ Là Chó Mới Chống
Cộng“ trong tác phẩm của y thị “Le Communisme est aussi un humanisme
(Chủ Nghĩa Cộng Sản Cũng Là Chủ Nghĩa Nhân Bản). Nay thì ai cũng thấy kể
cả những người mù, một phần là do VC trân tráo tuyên bố, phần khác dựa
vào các văn khố quốc tế và bia miệng bia đời. Theo đó, VC ở miền Nam
trong cuộc chiến 1955-1975, không phải để cứu nước, mà là đoàn quân viễn
chinh của Cộng Sản đệ tam thế giới, hoạt động hợp pháp tại miền Nam, do
Hà Nội điều khiển chỉ huy trực tiếp, bởi Hồ Chí Minh qua đám bộ hạ như
Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Trần văn Trà, Trần Độ...
Còn Nguyễn Hữu Thọ là bù nhìn, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định thân
phận không hơn một nữ hộ lý của đám chóp bu tại Bắc Bộ Phủ. Tóm lại suốt
cuộc chiến, qua sự giả vờ ngây thơ cụ của chính phủ Hoa Kỳ, ít nhất về
hình thức VC đã thành công đánh lạc hướng nhiều nước Tây phương xác
nhận, chúng là một thực thể quân sự, chính trị, độc lập với miền Bắc.
Một tổ chức tự phát địa phương chống lại VNCH. Cũng từ người Mỹ giả bộ
khi nói tới MTGPMN, để có một cái cớ hợp thức hóa giùm vai trò bù nhìn
của Thọ, Phát, Bình... dù rằng cái đám lục bình này từ đầu đến cuối, có
bao giờ được Hà Nội cho dự quyết định chính trị. Song song sự tung hê
Mặt Trận, người Mỹ còn đểu cáng vẽ lên huyền thoại Cục R, đầu não của
Mặt Trận, bảo nó ở trong một khu rừng già nào đó, bởi vậy đánh hoài R
vẫn là R cho tới năm 1976, R mới bị Hà Nội bắt tan hàng, giải thể vì hết
nhiệm vụ. Tóm lại Cục R chỉ là một địa điểm di động, có không không có,
khi cần thì có, tức là lúc Bắc bộ phủ có nhu cầu về học tập, ban hành
chỉ thi của đảng, xong việc tan hàng. Bởi vậy khắp miền Nam, đâu cũng là
Cục R, ngay cả thủ đô Sài Gòn khi Phạm Hùng tới làm việc ở một căn nhà
trên đường Trần Khát Chân, quận 1 hoặc trong một khu rừng già mit mù nào
đó sát biên giới Việt Miên, tại Tây Ninh hay Hậu Nghĩa. Chính giới báo
chí Sài Gòn năm xưa, qua tài liệu Mỹ và các cán viết Bắc Việt nằm vùng
như Lữ Phương,Vũ Hạnh,Phong Đạm, Trần hiếu Minh (Nguyễn Văn Bổng)..dưới
sự chỉ đạo của Trần Bạch Đằng, tức Tư Méo hay Trương gia Triều, anh em
thúc bá của Trúc Viên Trương gia Kỳ Sanh., dân biểu Bình Thuận
1967-1971. Thêm vào đó là trí tưởng tượng tuyệt luân của Chu Tử trong
Sóng Thần,đã tạo nên một huyền thoại mờ mờ ảo ảo về Mặt Trận và Cục R,
đánh động sự tò mò của đồng bào và giới trí thức miền Nam, nhằm mục đích
lung lạc và dụ dỗ mọi người theo VC, chống lại chính phủ VNCH. Tình
trạng này cũng y chang như sự Hồ Chí Minh cho Pháp vào Bắc Việt năm
1945, mới có lý do kêu gọi toàn dân kháng chiến năm 1946. Mỹ cũng vậy,
phải hợp thức hóa Mặt Trận Ma Giải Phóng, mới chính đáng trước dư luận
thế giới, khi đổ quân vào VNCH, tạo thế chiến lược, xong rồi phủi tay bỏ
chạy một cách nhục nhã vào tháng 4-1975.
Tại Bình Thuận từ lúc chính thức bàn giao lại cho Chính Phủ Quốc Gia VN
năm 1952 tới tháng 4/1975, có tất cả 19 vị tỉnh trưởng dân sự cũng như
quân đội. Ngoại trừ Trung Tá Đinh văn Đệ, khóa 1 SQTB. Nam Định, cùng
khóa với Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Đức Thắng, Lê Nguyên Khang, Nguyễn Cao
Quyền, Đàm Văn Quý... là điệp viên chiến lược nằm vùng, trong Chính
quyền và quân đội miền Nam tù ngày di cư 1954, đã giữ nhiều chức vụ quan
trọng như Chánh Văn Phòng của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng
QDVNCH. Tỉnh Thị Trưởng Đà Lạt, Tuyên Đức, rồi tỉnh trưởng Bình Thuận
từ tháng 3/1965 tới năm 1967 đắc cử dân biểu Quốc Hội, làm tới chủ tịch
Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện VNCH. Chính Y là người đã dàn dựng những bức
tranh vân cẩu tại Phan Thiết, đem bàn thờ Phật xuống đường Đồng
Khánh-Gia Long, rạch ngực Lê Văn Minh lấy máu chống Mỹ Ngụy, từ
1965-1967. Sau tháng 4/1975, y đã chính thức mang cấp bậc thượng tá Công
An ở Sài Gòn. Vậy mà lúc rời chức vụ vào Sài Gòn, thân hào trí thức địa
phượng đã viết tặng VC nằm vùng, một bức hoành phi chữ vàng, với câu:
’Nhất Phiến Băng Tâm Tại Ngọc Hồ, thì còn gì trơ trẽn cho bằng. Theo
Trang Xuân Hy mới từ Mỹ về Sài Gòn, có gặp Đinh Văn Đệ, nay làm công quả
tại chùa Cao Đài, đương sự chán nản và tỏ vẻ thù hận VC, vì đã bị chúng
cho ra bã từ mấy năm nay.
Sống trong vùng xội đậu, nạn nhân lãnh đủ vẫn là dân chúng chịu cảnh
trên dao dưới thớt, một cổ đôi ba tròng.Trong cái địa ngục này, tất cả
đều chực chờ thần chết từ mọi phía, những giáo làng, các em học sinh tới
người dân bình thường, không ai có quyền lựa chọn vì theo Quốc Gia cũng
khổ, hàng Việt Cộng lại càng thê thảm hơn... cho nên cách duy nhất để
giữ mạng là tuỳ cơ ứng biến, đó là quy luật sống trong vùng xôi đậu. Giờ
này viết lại vẫn thấy chua xót đau lòng, qua những ngày hành quân tại
những thôn làng mà dân chúng đã hoàn toàn theo du kích. Thái độ của họ
thật là bất nhẫn, mua không bán, xin chẳng cho, công khai tìm đủ mọi
cách thông tin với VC qua nhiều ám hiệu như giả bộ mang quần áo ra sân
phơi, quét dọn nhà cửa vườn tược để gây nên những tiếng động hay dùng
đèn báo hiệu ban đêm. Chính những điều nhỏ nhặt này, mới thấy được sự
quan trọng của chiến tranh tâm lý và trên hết là nổi khó khăn cùng hiểm
nguy cực kỳ của các cán bộ dân vận, khi tới công tác trong vùng xôi đậu.
Lính tới rồi đi lại có đầy đủ phương tiện, súng đạn để đối phó với mọi
bất trắc. Trong khi các Đoàn BDPT với quân số ít ỏi, vũ khí thô sơ nhưng
nhiệm vụ thì quá nặng nề. Cũng nhờ các chiến công vô hình này, về sau
ta đã hầu như gần nắm vững được tình hình bạn đích khắp vùng. Từ năm
1970 về sau, nhờ sự cải thiện chiến thuật, chiến lược của Đại Tá Ngô Tấn
Nghĩa, nên nhìn trên bản đồ hành quân của Tỉnh, màu đỏ màu vàng lần
lượt biến mất, ngoại trừ vùng núi non rừng rậm không có người ở.
B-BÌNH THUẬN TRONG BIỂN LỬA CHÍNH TRỊ (1960-1975):
So với các tỉnh khác tại miền Nam, lực lượng võ trang của VC ở đây không
mạnh dù chúng có nhiều mật khu tốt để dung thân, có tiếp tế dồi dào vì
nằm ngay trên đường giao liên chiến lược nhưng thiếu sự ủng hộ của quần
chúng, ngoại trừ thân nhân và những nạn nhân bị áp buộc. Sự việc Bình
Thuận không có các Sư Đoàn Bộ Binh trấn đóng hay suốt cuộc chiến vắng
bóng Dù, TQLC,BDQ và trên hết là sự thảm bại của VC trong ba lần tấn
công Phan Thiết vào Tết Mậu Thấm 1968, đủ chứng minh sự nhận xét của các
nhà viết sử hôm nay.
Nhưng tại sao trên báo chí, sách vở do đảng biên soạn, lại luôn ca tụng
chiến thắng và lúc nào cũng kéo bè học sinh, Phật tử vào chung xuồng.
Thật sự cho ta biết từ đầu năm 1955, VC nằm vùng đã có vài cơ sở hoạt
động nội thành, trà trộn trong các hội đoàn, chùa chiền và ngay cả trong
các trường trung học Bạch Vân, Phan Bội Châu... nhưng đó cũng chỉ là
chút muối bỏ biển, vì dân chúng ai cũng thích cảnh sống êm đềm hạnh phúc
nơi chốn rừng tiền biển bạc, nhà nhà sung túc, người người ấm no trong
suốt những năm 1955-1960. Nhưng máu đã bắt đầu đổ lại khi Hà Nội ban
hành Nghị Quyết 15 lập Đảng bộ miền Nam hay MA mặt trận tức Việt Cộng.
Tiệc máu được mở màn tại Bến Tre cũng như ở xã Bắc Ruộng, quận Tánh
Linh, Bình Tuy. Ngày 2-9-1959, Nguyễn Gia Tú tức Sáu Tú thành lập Đơn Vị
2/9 Du Kích, do Phạm Thành Chương chỉ huy cũng như là bí thư chi bộ.
Ngoài ra còn có Nguyễn Hội, học sinh PBC 55-59, chỉ huy phó Hậu Cần. Từ
đo VC trong ngoài nhân danh Mặt Trận chống phá chính quyền Quốc Gia tận
tuyệt. Bên trong nội thành, cán bộ nằm vùng hợp pháp như Nguyễn Thị Hằng
Nga (GS/PBC), Nguyễn Quý Đôn, Nguyễn Như, Năm Trà... công khai rỉ tại,
sách động, lập băng, lập đảng. Bên ngoài thì du kích của Song Mã, Hồ
ngọc Lầu... đánh phá khắp các ấp chiến lược, khu dân cư và ngay trong
thị xã, tạo nên hoạt cảnh chiến tranh khiến cho mọi người lo sợ, tưởng
tượng như VC sắp cướp được chính quyền. Cuộc chính biến 1-11-1963 rồi ba
năm xáo trộn 1963-1967 đã không mang đến cho mọi người ấm no hạnh phúc,
mà còn tạo cớ cho VC phỉ loạn, các thế lực quốc tế trong đó De Galle
của Pháp tha hồ tác quái. Nhưng trên hết Hà Nội đã thành công, khi thả
hỏa mù, chơi trò đánh lận, tung hê cuộc tranh đấu của Phật Giáo VN như
là một tổ chức ngoại vi Cộng Sản, vừa làm mất chính nghĩa đấu tranh lý
tưởng, vừa tạo chia rẽ chết người giữa các tôn giáo trong nước và vô
hình chung khiến Phật Giáo đương nhiên trở thành lực lượng công khai đối
đầu với luật pháp quốc gia. Dù Phật tử hay không Phật tử, mọi người đều
biết nhân sinh quan của nhà Phật rất gần gũi với quan niệm xã hội của
Cộng Sản, cùng phát xuất từ đói nghèo trên thế gian. Do trên VC đã tráo
bài để mọi người cứ tưởng Phật Giáo là thân Cộng.
Nhưng không có lửa làm sao có khói, để mọi điều tưởng như thiệt, VC gài
cán bộ vào trong mọi tổ chức và chính những tên này mới là thủ phạm. Nửa
thế kỷ đã trôi qua nhưng cũng không làm sao xóa mờ nhân ảnh của một
thời kỳ loạn lạc u mê trong dòng sử Việt. Ngày nay khi đọc lại những câu
thơ của Trần Quang Long như “dùng chính trái tim mình làm trái phá“ hay
nhớ tới các tên sát nhân của Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ
Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân... cũng đã cảm thấy rợn người về ý nghĩa cuộc
tranh đấu. Thật vậy, ta cứ nghe bản tuyên ngôn lúc đó của phong trào
Nhân Dân Cứu Quốc: ”Con sẽ vót nhọn thơ thành chông xuyên vào gan lũ
giặc, con sẽ mài thơ như kiếm sắt chặt đầu văn nghệ tay sai..” cho nêu
đâu lạ gì cảnh một số SVHS tạo sự nghiệp trong học đường bằng tranh
đấu,quậy phá, ném lựu đạn giết người, ở tù để có tiếng. Theo Hoàng Phủ
Ngọc Tường trong “Hành Lang Của Người Và Gió” và bài viết mới đây trên
tạp chí Cửa Việt tháng 5/1997 cho biết nằm vùng VC trong các đại học và
tôn giáo nhất là tại Huế, quyết chọn nắm 1966 để mở chiến dịch tổng phản
công trên đường phố bằng SVHS và giáo đồ. Do trên VC đã lập đội võ
trang quyết tử tại Huế, giao cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn
Đắc Xuân, Phan Duy Nhân, Lê Thanh Xuân, Trần Quan Long, Lê Minh Trương,
Trần Vàng Sao... chỉ huy. Riêng GS tại DH Huế là Ngô Kha thì chỉ huy
đoàn quyết tử Nguyễn Đại Thức, chặn đánh QLVNCH và Hoa Kỳ trên đèo Hải
Vân. Rốt cục tất cả đều hiện nguyên hình là cán binh, lấy chùa trường
học làm chốn nương thân hoạt động. Những Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Bửu
Tôn, Hoàng Phủ Ngọc Tường... đều là cán thiệt, thứ bậc còn hơn Bùi
Tường Huân, Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên, Nguyễn Văn Trung... hợp đoàn bẻ
cong sự thật, khiến cho các vị chân tu tôn giáo đã lầm lạc khi nhận định
chủ quan về đường lối chính sách của Hà Nội. Sau tháng 5/1975, VC qua
lời tuyên bố của Nguyễn Văn Hiếu, rằng là Phật giáo tại VNCH là phản
động, nên đảng phải giúp giải phóng, để trở thành Phật Giáo cách mạng.
Dậu đổ thì bìm leo, Bình Thuận cũng lao đao lận đận suốt mùa pháp nạn.
Rồi thì thảm trạng nhà tan cửa nát Tết Mậu Thân nhưng may hơn Huế vì VC
bị đánh đuổi về rừng, nên không ai bị đập đầu, chôn sống hay cột đá
quăng xuống biển. Năm 1971 bầu cử Quốc Hội và tổng thống VNCH. Trong lúc
hằng chục ngàn QLVNCH chết banh thây tại Hạ Lào, thì ở hậu phương tiếp
tục quậy nát đất nước, qua cái trò Ủy Ban Chống Gian Lận Bầu Cử. Dòm
qua, dòm lại, dòm tới dòm lui cũng chỉ có Phan khắc Từ, Huỳnh Liên,
Nguyễn ngọc Lan, Hồng sơn Đông, Lý Vhánh Trung, Ngô Công Đức, Trương Gia
Kỳ Sanh, Hồ Ngọc Cứ, Trần Ngọc Liễn, Bà Ngô Bá Thành, Nguyễn Hữu Thái,
Phạm Thế Trúc... tất cả đều là phe ta muốn Dương Văn Minh lên làm tông
tông thay Nguyễn Văn Thiệu để mau đầu hàng Hà Nội. Tại Phan Thiết, Bình
Thuận, theo ông Phạm Ngọc Cửu, lúc đó là phó tỉnh trưởng kiêm chủ tịch
Ủy Ban Bầu Cử Tổng Thống và QH/VNCH kỳ 2 ngày 3-10-1971 tại Bình Thuận,
cho biết tình hình trong tỉnh cũng rối loạn như các nơi khác. Một mặt VC
rải truyền đơn bắt dân chúng bỏ phiếu cho 4 con gà nhà với chủ trương:
”Thiệu phải từ chức, Mỹ rút, chấm dứt chiến tranh và hòa hợp hòa giải
với VC”, nếu không sẽ phá nát bầu cử bằng bom đạn. Nhưng cuối cùng 4 con
gà cồ đều về áp chót. Các ứng cử viên đắc cử dân biểu Hạ Viện, đơn vị
Bình Thuận, nhiệm kỳ 1971-1975, gồm có Thiếu Tá Y Sĩ Đinh Xuân Dũng,
phục vu tại QYV/Đoàn Mạnh Hoạch, Giáo Sư Nguyễn Quốc Biền-Giám Học
Trường TH. Chính Tâm, Thiếu Tá Lý Thế Quang (Lý Siu Cống,
CHT.TTHL/SD5BB) và Thiếu Tá Đặng Quang Lượng, TMP/TKBT, quận trưởng An
Phước-NT. Cựu Dân Biểu Trương gia Kỳ Sanh, tức Trúc Viên, Nguyễn Thị Thu
Nhi, Lê Khắc Hai thất cử.
Theo Trung Tá Dụng Văn Đối, thì mới đây một tác giả nào đó viết ‘Trận
Đánh Không Có Đại Bàng‘, ám chỉ vào cấp chỉ huy tại Bình Thuận. Đây là
một sự bịa đặt để trả thù cá nhân Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa. Cũng theo Trung
Tá Đối, thì đương sự lúc đó chỉ là một sĩ quan tại Tiểu Đoàn 5 An Ninh
Thiết Lộ, ra tranh cử dân biểu đơn vị Bình Thuận và đã thất cử, áp chót
trong danh sách ứng cử viên. Cuối cùng đã đổ lỗi cho Tiểu Khu Bình Thuận
thiếu công bằng, gian lận, không ủng hộ. Thử hỏi một cá nhân không có
một chút uy tín gì đối với quân, dân, cán, chính bản địa... đó là chưa
nói tới màn viết báo Sóng Thần phá thối chính quyền. Thử hỏi làm sao so
sánh nổi với uy tín của hai vị ứng cử viên đắc cử là Y Sĩ Thiếu Tá Đinh
Xuân Dũng, dù có lập trường thế nào chăng nửa, vẫn được mọi người kính
nể, mang ơn trong lúc tới dân cũng như Quân Y viện, khám chửa bệnh. Ông
ta còn là đại diện của Phật Giáo trong tỉnh, giống như Giáo Sư Nguyễn
Quốc Biền, giám học trường Trung Học Tư Thục Chính Tâm, lớn thứ hai tại
Phan Thiết và là đại diện cho đồng bào Công Giáo trong tỉnh.
Công bằng mà nói, đối với người Bình Thuận, rất khó lòng ép buộc họ bầu
cho ai. Như Trương Gia Kỳ Sanh bị thất cử là điển hình. Một người sinh
sống lâu đời tại Bình Thuận, lại tập ấm tiếng tăm của dòng họ từ thời
Trương Gia Hội, Trương Gia Mô, rất có tiếng trong ngành giáo dục tại địa
phương, khai sinh trường TH. Tiến Đức, giáo sư Pháp văn trường Phan Rí
Cửa, Hòa Đa... Nguyên do thất cử vì lập trường và có một cộng sự viên
đắc lực là Phan Nghiêm, nghị viên Hội Đồng Tỉnh nhưng lại là Một Cán Bộ
VC Nội Thành, đã bị tống giam trước năm 1975. Câu chuyện khôi hài nói
trong kỳ bầu cử đó, chính quyền đổi thùng phiếu nên Trúc Viên thất cử,
theo Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, là điều phi lý, vì Trúc Viên có vây cánh và
tai mắt khắp nơi. Kỳ đó, quả thật Bình Thuận gian lận bầu cử, chẳng
những toàn bộ chính quyền tỉnh bị bay chức, mà biết chừng Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu cũng hạ đài, vì Trúc Viên rất thích xé to chuyện.
Từ đó, Bình Thuận sống yên vui vì VC đã bị DPQ/NQ cùng các Toán Xây Dựng
Nông Thôn đẩy lui tận rừng sâu, núi cao. Mật khu Lê Hồng Phong trở
thành khu săn bắn của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu khi ra thăm Phan
Thiết, Phan Rang. Đường quốc lộ số 1 cũng như các tỉnh lộ khai thông,
công xa di chuyển không cần hộ tống. Thi xã Phan Thiết nhờ mưa thuận gió
hòa, dân biển ruộng trúng mùa, lại được an ninh tuyệt đối, nên tha hồ
ăn nhậu, vui hưởng hạnh phúc như buổi thanh bình thời 1955-1960. Nhưng
đó là đối với dân, còn những người đứng mũi chịu sào thì thảm thê cùng
khốn. VC không thắng ta về quân sự, nhưng ta đã mất nước vì phe ta. Để
triệt hạ những người có công với nước, ta chơi ta bằng cách bịa ra trò
đánh tham nhũng trên báo chí, đánh đêm ngày, đánh cho tới ngày 30-4-1975
, VNCH bị cưởng chiếm mới hết đánh vì báo chí Sài Gòn trong đó có tờ
Sóng Thần, Điện Tín không còn và các nhà báo đánh phe ta cũng bị VC vắt
chanh bỏ vỏ, phải vượt biên ra hải ngoại để có báo trả thù người Quốc
Gia tiếp cho tới khi đạt dược thắng lợi cuối cùng .
C-BIỆT CHÍNH ĐOÀN hay XÂY DỰNG NÔNG THÔN TRONG VÙNG XÔI ĐẬU BÌNH THUẬN :
Quốc sách Bình Định Phát Triển Xây Dựng Nông Thôn Miền Nam VN, đã có từ
thời TT Ngô Đình Diệm, gắn liền với Aáp Chiến Lược, rồi Aáp Tân Sinh
(thời Dương văn Minh) và trở lại Aáp Chiến lược khi Nguyễn Khánh nắm
quyền cho tới tháng 4/1975. Từ ngày 1/6/1966 để đáp ứng tình hình chiến
sự càng lúc gia tăng tại chiến trường, bẻ gãy âm mưu dùng nông thôn bao
vây thành thị của VC, chính phủ cho thành lập cơ cấu Xây Dựng Nông Thôn,
một hình thức chuyển hóa sự hoạt động của các Biệt Chính Đòan, cho phù
hợp với kế hoạch chiến tranh của Hoa Kỳ lúc đó là TÌM và DIỆT. Đứng dầu
tổ chức này là Tổng Bộ XDNT do Thiếu Tướng Nguyễn Đức Thắng chỉ huy.
Ngoài ra còn có Nha Quản Trị CBXHNT, trực thuộc Tổng Bộ XDNT, do Đại Tá
Nguyễn Tài Lâm, khóa 1 SQTD làm Giám Đốc. Một Trung Tâm Huấn Luyện
CB/XDNT được thiết lập tại rừng Chí Linh, đồi Hồng Lĩnh, đất Lam Sơn
thuộc thị xã Vũng Tàu, do Đại Tá Nguyễn Bé, bút hiệu Tường Vân làm Chỉ
Huy Trưởng. Về nhân sự, cán bộ XDNT ngoài một số tân tuyển, phần lớn
được cải tuyển từ Biệt Chính Tiền Phong, Biệt Chính Nhân Dân, Cán Bộ
Công Dân Vụ, Cán Bộ Hành Chánh Lưu Động, Cán Bộ Ấp Tân Sinh, Cán Bộ
Chính Trị Nông Thôn..
Từ năm 1966-1968 , giai đoạn xây dựng các Ấp Đời Mới kiểu mẫu tại nông
thôn với sự phối trí hoạt động của Đoàn BDPT gồm 59 cán bộ, nên còn gọi
là ĐOÀN 59 gồm 1 Ban Chỉ huy, 1 liên toán Xây Dựng và 1 liên toán Dân
Quân. Các Đoàn 59 do Tỉnh Trưởng kiêm Chủ tịch HDXDNT chỉ huy trực tiếp,
thi hành theo chính sách của trung ương đề ra gồm 4 tư tưởng chỉ đạo, 5
kỹ thuật căn bản, 11 mục tiêu và 98 công tác dân vận. Đinh Văn Đệ lúc
đó là Tỉnh Trưởng Điệp viên nằm vùng của VC, nên đã tạo cho an ninh toàn
tỉnh Bình Thuận kể cả Phan Thiét, tồi tệ đến mức gần như là lãnh thổ
của VC, mặc dù tại đây đã có Lữ đoàn 605 Dù của Hoa Kỳ đóng trên Căng.
Cũng vì tình hình quá nguy hiểm nên Trung ương đã phải lượng giá lại các
xã ấp trong tỉnh lúc đó gồm 7 quận, 53 xã và 173 ấp theo bản đồ quân sự
chia vùng A,B,C. Nhiệm vụ của các Đoàn BDPT tại Vùng B xội đậu, ban
ngày là của ta, ban đêm thuộc địch..nên vô cùng nguy hiểm. Nói chung
trong giai đoạn này, hầu hết các quận đều được phối trí các Đoàn Công
Tác 59. Tại quận Hàm Thuận có 6 Đoàn : Đoàn 1 tại liên xã Mương Mán, Văn
Phong. Đoàn 2 tại xã Phú Hưng. Đoàn 3 liên Aáp Gò Bồi, Thuận Nghĩa.
Đoàn 4 Ấp Phú Khánh, Phú Lâm. Đoàn 5 liên Aáp Phú Nhang, Phú Mỹ thuộc xã
Phú Hội và Đoàn 6 hoạt động tại ấp Xuân Phong. Tại Thiện Giáo gồm nhiều
Đoàn hoạt động tại Vùng B như xã Tuỳ Hòa, Phú Long, Lại An, Bình An,
Bình Mỹ Thuận và Ma Lâm. Tại Hải Long, các xã Thanh Hải,Khánh Thiện và
Thạch Long thuộc loại A , nên chỉ có 4 Đoàn hoạt động tại Bàu Me xã
Thiện Nghiệp, Rạng xã Thiện Khánh, Phước Thiện Xuân và Liến Ấp Ngọc Hải,
Ngoại Hải thuộc xã An Hải. Tại quận Hoà Đa có 6 Đoàn, 2 Đoàn hoạt động
tại xã Phan Rí Cửa ở các ấp Hội Tâm, Lâm Lộc, Phú Ninh và Phú Hải. Xả
Thượng Văn có 1 Đoàn hoạt động tại Ấp Thanh Lương. Tại xã Chợ Lầu có 1
Đoàn đóng tại Ấp Hiệp Hòa nhưng hoạt động cho cả hai Ấp Hiệp Hòa và Xuân
Quang. Tại Xã Phan Rí Thành có 1 Đoàn tại Ấp Long Lể và 1 Đoàn ở xã
Lương Sơn. Quận Hải Ninh có 2 Đoàn tại Sông Mao và Sông Lũy. Quận Phan
Lý Chàm chỉ có 1 Đoàn phối trí hoạt động chung. Quận Tuy Phong có 2 Đoàn
được phối trí 1 Đoàn tại La Gàn, Bình Thạnh. Riêng Đoàn 2 bao vùng từ
Liên Hương tới xã Phước Thể, Vĩnh Hảo Đông, Vĩnh Hảo Tây và Tuy Tịnh
Việt. Ngoài ra còn 1 Đoàn hoạt động ngoài hải đảo Phú Quý tại 3 Ấp Long
Hải, Tam Thanh và Ngủ Phụng.. Trong thời gian Bình Định Phát Triển này,
các Đoàn 59 thường bị VC tấn công, dù trong lúc công tác có DD/DPQ hay
Trung Đội NQ yểm trơ. Nhờ sự hoạt động hữu hiệu tại nông thôn, giai đoạn
này các cơ sở hạ tầng VC bị phá vỡ rất nhiều, thêm vào đó là sự hồi
chánh của cán binh, nên VC quyết tâm phá hoại. Cũng trong năm 1966 khi
Đinh Văn Đệ còn làm Tỉnh Trưởng, một cuộc tấn công táo bạo của 1 TD/VC
ngay tại Ấp Đại Tài, ngoại ô Phan Thiết, khiến gần hết 1 DD/DPQ cuả
Trung Úy Huỳnh Đức, người Mũi Né, cựu học sinh PBC 1955-1962 tan hàng
cùng với Đoàn 59 của Đoàn Trưởng Phạm Cường.
Tỉnh Đoàn BDPT/Bình Thuận được chính thức thành lập vào tháng 6/1966.
Thời gian này văn phòng liên lạc đóng tạm tại Hội trường Diên Hồng, kế
Ty Thanh Niên do Thiếu Uý Phạm Nhật Hưng làm Tỉnh Đoàn Trưởng. Thời gian
này Tỉnh chỉ có 2 đoàn tân tuyển, đã thụ huấn khóa 1/1966 tại Vũng Tàu
về hoạt động. Những năm kế tiếp do nhu cầu và tình hình an ninh, số Đoàn
và Cán bộ BDPT đã tăng lên gần 2000 người, nên có doanh trại tại Trại
Quang Trung. Từ năm 1966-1975, Tỉnh Đoàn BDPT hay XDNT/Bình Thuận được
chỉ huy bởi Thiếu Uùy Phan Nhật Hưng (Tỉnh Đoàn Trưởng 1966-1968), Trung
Tá Nguyễn hữu Định (TDT 1968-1969), Trung Tá Lê Chi Hảo (TDT 1969-1972)
và Lê Minh Giang (TDT 1972-1975).
Sau trận tổng công kích Tết Mậu Thân của VC, tình hình an ninh tại Miền
Nam gần như được vãn hồi. Do trên người Mỹ cũng đã thay đổi kế hoạch
chiến tranh từ Tìm và Diệt tới mưu tìm hòa bình, chấm dứt chiến tranh.
Trong chiều hướng trên, từ năm 1969, danh xưng Bình Định Phát Triển cũng
đổi thành Xây Dựng Nông Thôn và Đoàn Cán Bộ 59 người cũng tái phối trí
thành Đoàn 30 người, gồm 1 Ban Chỉ Huy và 3 Toán công tác. Từ năm 1970,
để phù hợp với các biến chuyển chính trị trong và ngoài nước, cũng như
trước tình hình an ninh khả quan tại nông thôn, Tổng Bộ Xây Dựng Nông
Thôn đã được đổi thành Bộ Phát Triển Nông Thôn và danh xưng Cán Bộ Xây
Dựng Nông Thôn cũng được đồng nhất thành Cán Bộ Phát triển Nông Thôn với
nhiệm vụ Phát Triển Nông Thôn trong thời bình. Nhiều dự án do ngân sách
của Chính Phủ tài trợ, giúp Ấp Xã xây cất thêm trường học, chợ búa,
phát triển thêm nhiều tổ hợp chăn nuôi heo giống, trồng lúa ngắn hạng và
hành nghề chài lưới.
Từ đầu năm 1971, trước sự kiện Hoa Kỳ đang tiến hành giải pháp thương
thuyết bí mật với Hà Nội để giải quyết chiến tranh, Chính Phủ VNCH cũng
đã thay đổi kế hoạch để chống lại âm mưu chiếm đất dành dân của VC. Do
trên Đoàn 30 Cán Bộ lại được cải biến thành Đoàn 10, gồm 1 đoàn trưởng
và 9 cán bộ chuyên môn, với nhiệm vụ tận Aáp Xã. Riêng số cán bộ thặng
dư được chuyển ngành sang Cảnh Sát, Điền Địa và Các Viên Chức Xã Aáp.
Cuối cùng đầu năm 1972, chấm dứt nhiệm vụ của Đoàn 10 Cán Bộ Phát Triển
Nông Thôn. Từ đó Đoàn 10 chính thức là Xã Đoàn Cán Bộ Phát Triển Nông
thôn , trực thuộc cơ cấu hành chánh xã nhưng đồng thời cũng nằm trong hệ
thống chỉ huy của Tỉnh Đoàn, Quận Đoàn. Đầu năm 1974, nhằm cải tổ hành
chánh cho hợp với tình hình chính trị và ngân sách, Bộ Phát triển Nông
Thôn bị giải thể, Nha Cán Bộ trở thành Tổng Nha Cán Bộ Nông Thôn, trực
thuộc Bộ Nội Vụ và Cán Bộ Phát Triển Nông thôn trở thành Cán Bộ Nông
Thôn cho tới ngày 30/4/1975.
Một thời lịch sử đã khép lại, bao chục năm buồn thảm đến đi trong thiên
đường xã nghĩa nhưng vẫn không ngăn nổi phế hưng cuộc đời, trong đó thời
gian đã làm sống lại những gương anh hùng liệt nữ của VNCH thuở nào đã
nằm xuống vì đại nghĩa dân tộc từ 1955-1975. Và như thế viết lại những
trang sử này cho dù không thể nói hết vì Những người Cán Bộ Aùo Đen
chiến đấu đơn độc trong vùng xôi đậu khắp nước hay tại Bình Thuận, là
những chiến sĩ vô danh thênh thang một cõi đi về. Thực tế qua các tài
liệu còn lưu trữ, ta biết được trong hai mươi năm chinh chiến, số cán bộ
công dân vụ, biệt chính đoàn và sau này là xây dựng nông thôn, đã nằm
xuống ở đây không phải là ít ỏi, nhất là trong thời gian 1963-1969, là
thời kỳ hỗn loạn trộn trấu xô bồ nhất tại Bình Thuận. Năm 1966, ngay tại
cổng Aáp chiến lược Đại Tài ngoại ô Phan thiết, qua sự dàn dựng của
Đinh văn Đệ, khiến cho gần một DD/DPQ của Trung Uùy Huỳnh Đức và Đoàn 59
Cán Bộ PTNT của Đoàn Trưởng Phạm Cường cùng Đoàn Phó Dân Quân Nguyễn Đề
thương vong. Năm 1970 tại xã Tuỳ Hòa, Đoàn Trưởng Nguyễn Phương trong
lúc đang hướng dẫn Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa tham quan Aáp Tân
Sinh, thì bị tử thương tại chô. Trong trận chiến Tết Mậu Thân 1968, VC
pháo kích Trại Quang Trung nơi có Tỉnh Đoàn PTNT, làm tử thương Cán Bộ
Nguyễn Hưng Thắng và khiến cho nữ Cán Bộ Nguyễn thị Lam Tiên bị đứt lìa
cả hai chân. Đây chỉ là trong ngàn muôn cái chết của những anh chị em
cán bộ, đã ngả xuống khi dấn thân vào lòng đất địch.
Những ngày mất nước từ tháng 5/1975, Đoàn Trưởng Dương Đàng cùng với Đại
Uý Lê Văn Trò, DDT/DD206 Thám kích Tỉnh, Xã Trưởng Lương Sơn là Lê Dược
(bị bắt từ Sài Gòn đem về), Trung Sĩ Nguyễn Chánh, an ninh PCK.Lương
Sơn, Trung Đội Trưởng NQ xã Phan Rí Thành là Phan văn Đắc, Thượng sĩ
Cảnh Sát đặc biệt xã Phan Rí Thành là Sáu Bạn..đã bị VC phanh thây tại
quê nhà, để trả thù. Nhiều người chết ngay trong tù khắp tỉnh từ Hàm
Tân, Huy Khiêm, Tà Lon, Cà Tót, Sông Mao, Sông Cái..Một số lớn mãn tù về
chết tại nhà như Tỉnh Đoàn Phó Lê Minh Hải, Quận Đoàn trưởng Phùng Bửu
Hưng, Xã Đoàn Trưởng Đổ văn Quế, Nguyễn ngọc Oanh Xã Trưởng xã Bình An,
Nguyễn Thông Chủ tịch xã Phú Long, Nguyễn văn Đồng Aáp Trưởng Aáp Hải
Tân Phan Rí Cửa, Trung Uý Tăng văn Đồng Trưởng Ban 5 Hòa Đa, Nguyễn văn
Bường CS Hải Long, Trung Uý Đoàn hữu Bính, Trưởng phòng NDTV Hàm Thuận..
nhiều quá làm sao kể hết ?
“ Chẳng có ai tẻ nhạt ở trên đời
Mỗi số phận chứa một phần lịch sử “.
Lịch sử do con người tạo nên và sao chép lại để lưu danh. trong đó ai
cũng có phần, cho nên đừng tưởng rằng thời gian rồi sẽ quên tất cả. Cho
dù người sống có khoan dung nhưng có ai ngăn nổi những oan hồn tử sĩ
VNCH đang đội mồ sống lại, để đòi danh dự và nợ máu oan khiên từ đảng
cọng sản bán nước và đám phản tặc Việt gian đang lẩn quẩn trong dòng
người Việt hải ngoại, chỉ vì chút danh hẻo, bẻ cong viết bậy, làm tủi
vong linh những người đã nằm xuống cho chúng sống nhục tới ngày nay.
3-TIỂU KHU BÌNH THUẬN 1955-1975
Thời VNCH (1955-1975), Quân Đoàn 2 chiếm một lãnh thổ có diện tích lên
tới 78.841 km2, rộng nhất trong bốn vùng chiến thuật. Bộ Tư Lệnh đóng
tại Pleiku, còn 2 Bộ chỉ huy tiếp vận 2 và 5 thì ở Quy Nhơn và Nha
Trang-Cam Ranh, còn có hai Sư Đoàn 2 và 6 Không Quân Chiến Thuật đóng
tại Pleiku và Nha Trang. Các phi trường Nha Trang, Bửu Sơn, Phù Cát và
Cù Hanh rộng lớn tối tân. Vùng 2 chiến thuật bao gồm 12 tỉnh cao nguyên
và duyên hải trung phần, trong đó quan trọng và cũng có nhiều phiến
cộng, nằm vùng nhất là Bình Thuận-Bình Định. Để xâm lược miền nam, cọng
sản Bắc Việt cho mở lại con đường giao liên đã có sẳn từ thời toàn dân
kháng chiến chống Pháp 1945-1954, thành con đường chiến lược mang đủ thứ
tên trong đó có Hồ chí Minh, xuất phát từ Hà Nội vào tới Cà Mâu dài
trên 2000 cây số. Con đường khai sinh đồng thời với cái mặt trận ma GPMN
sau khi vượt qua vùng phi quân sự ở Bến Hải, men theo rặng Trường Sơn,
tới Đổ Xá, Kòn Tà Nừng, Chulya, Khánh Hoà. Tại đây đường phân làm hai
nhánh, một đi ngược lên Lâm Đồng, Quảng Đức, Phước Long về Sài Gòn.
Nhánh hai tới Ninh Thuận, Bình Thuận, Rừng Lá, Rừng Sát, Biên Hòa...
Sau ngày binh biến 1-11-1963, VNCH gần như vô chính phủ, rối nát tan
hoang do đám kiêu tăng loạn tướng gây ra, mãi tới cuối năm 1967 khi
tướng Nguyễn văn Thiệu đắc cử Tổng Thống VNCH , tình thế mới tạm ổn
định. Bình Thuận là một trong các tỉnh ở miền Trung cùng chịu nhiều nạn
kiếp, khiến cho tình hình an ninh toàn tỉnh kể luôn thị xã Phan Thiết
tồi tệ đến mức ai nghe tới cũng sợ, khi phải tới miền đất này. Dù Tết
Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Phan Thiết ba lần bị thất bại, không
có cơ hội tắm máu đồng bào như tại Huế theo mong muốn của một số VC nằm
vùng và có thân nhân nhảy núi , tập kết nhưng hoàn cảnh lúc đó hết sức
bi quan, 95 % lãnh thổ bị địch chiếm, vùng còn lại ban ngày là của ta và
thuộc về giặc ban đêm. Tại Phan Thiết, VC về ám sát,đốt tấn công các
trụ sở ấp Đức Nghĩa,Phú Trinh,Hưng Long, Đức Long... coi như chỗ không
người, thậm chí ngay trong Tòa hành chánh và tiểu khu, tỉnh trưởng khi
di chuyển cũng phải có hộ tống và cận vệ. Các viên chức xã ấp, công
chức, cảnh sát kể luôn các cấp chỉ huy XDNT,Nghĩa quân, ĐPQ ... ban đêm
phải di chuyển chiến thuật tới các vùng tạm có an ninh ở Sông Mao, Phan
Thiết, Mũi Né để ngủ giữ mạng. Các đồn bót trong tỉnh luôn bị tấn công,
VC pháo kích bạt mạng vào thành phố, huyện lỵ và tàn nhẩn gài mìn khắp
nơi, khiến cho thường dân vô tội bị chết oan hằng ngày khi di chuyển
cũng như lúc ra đồng làm ruộng. Các trục giao thông tại Quốc Lộ 1, liên
tỉnh lộ 8, tỉnh lộ Phan Thiết-Mũi Né..bị tắt nghẽn, nhiều trạm thu thuế
gần như công khai của VC tại cây số 25, Thiện Giáo, Tùy Hoà, Tà Dôn, Đá
Ông Địa, Vĩnh Hảo..làm cho mọi người lo sợ, phải dùng phương tiện ghe
thuyền thay vì đi xe đò. Đã vậy trong tỉnh còn thêm vụ học sinh các
trường trung học xuống đường biểu tình đòi Mỹ rút, kêu gào bảo vệ đạo
pháp và các thầy cha, còn thêm màn mổ bụng rạch ngực viết huyết thư, tạo
đủ đắng cay máu lệ cho người dân vô tội trong cảnh chiến tranh tận
tuyệt. Tóm lại theo lượng giá của Đại Tá Ngô tấn Nghĩa, trong ngày nhậm
chức Tỉnh Trưởng vào mùa thu 1969 thế đại tá Đàng thiện Ngôn, thì Bình
Thuận và Phan Thiết lúc đó sắp lọt vào tay VC. Theo Trung Tá Ngô văn
Xuân, nguyên Tiểu đoàn trưởng TĐ 2, Trung đoàn 44, Sư đoàn 23 BB từng
tham chiến nhiều ngày tại Bình Thuận, thì chính Đại Tá Ngô tấn Nghĩa,
một sĩ quan dầy kinh nghiệm trong chức vụ trưởng phòng 2 quân đoàn 2
nhiều năm, qua nhiều vị tư lệnh, đã thành công trong việc tách rời các
cơ sở cũng như vô hiệu hoá Việt Cộng tại địa phương, từ đó cho tới ngày
miền nam bị sụp đổ vào tháng 4-1975. Chính các lực lượng Địa phương quân
và Nghĩa quân đã góp phần lớn máu xương trong việc bảo vệ an ninh và
mạng sống của đồng bào trong tỉnh, cho tới những giây phút cuối cùng
trong đêm 18 rạng ngày 19-4-1975. Họ là những chiến sĩ của QLVNCH không
tên với những chiến công hiển hách , đã dánh những trận để đời như sử
gia Chánh Đạo đã hết lòng khen ngợi trong tác phẩm “ 55 ngày đêm-cuộc
sụp đổ của VNCH”. Tôn vinh cuộc chiến đấu thần thánh trên là cách trả
lời cao thượng nhất để tri ân và lấy lại uy tín cũng như danh dự cho
người lính miền nam, những người đã vì nước vì đời, mà tự tìm lấy cái
chết bình thản tại chiến trường , ngay lúc giặc đã tràn ngập.
A-NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐPQ & NQ/QLVNCH:
Tại Bình Thuận vào năm 1952, trước ngày đình chiến, quân đội quốc gia đã
thành lập 2 trung đoàn vệ binh, mỗi trung đoàn có 5 đại đội. Trung đoàn
số 2 đóng tại Phan Rí, trung đoàn số 4 đóng tại Phan Thiết. Đầu năm
1953, các trung đoàn vệ binh được biến đổi thành tiểu đoàn bộ binh. Do
đó, trung đoàn vệ binh số 4 thành tiểu đoàn 264 B1 (Bataillon
d’infanterie), còn trung đoàn 2 thành tiểu đoàn 265 B1. Ngày 1-8-1954
lại thành lập trung đoàn 404 BB tại Phan Thiết với các tiểu đoàn 83
(nguyên TĐ 264 B1), tiểu đoàn 84 ( nguyên TĐ 265 B1) và TĐ 808 biệt lập
đóng tại Phan Thiết. Đầu năm 1955, Trung đoàn 404 được cải danh là Trung
đoàn 43 BB với các TĐ 1/43 (83), 2/43(84) và 3/43(808) thuộc SĐ 15
khinh chiến, từng tham dự các chiến dịch tiểu trừ Bình Xuyên, Hòa Hảo
năm 1955 tại Nam phần Từ năm 1964 trung đoàn 43 biệt lập qua các trung
đoàn trưởng tài danh như Thiếu tá Võ văn Cảnh, Thiếu tá Quách Đăng,
Trung tá Lý bá Phẩm,Đại tá Đàm văn Quý.. trấn đóng tại biệt khu Bình
Lâm, sau đó di chuyển vào nam. Năm 1966 cùng với các trung đoàn biệt lập
48 BB, 52 BB thành lập Sư Đoàn 10 BB, sau đổi thành SĐ18BB vào tháng
4-1975, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, đã tạo nên chiến
thắng Xuân Lộc vang lừng trong việt sử cận đại. Cũng tại Bình Thuận vào
tháng 7/1954 có 4800 quân nhân người Nùng, thuộc SĐ 3 khinh chiến của
Đại Tá Woàng A Sáng từ miền bắc di cư vào đóng tại Sông Mao nhưng cũng
chỉ một thời gian ngắn lại di chuyển vào Tam Hiệp, Biên Hòa, sau đó đổi
thành SĐ 5 BB. Để thay thế, Trung Đoàn 44 và 53 thuộc SĐ 23 BB , hậu cứ
đóng tại Sông Mao thường xuyên hành quân bảo vệ Bình Thuận và Ninh
Thuận. Từ đầu năm 1970, hầu hết các thành phần cơ sở, du kích kể luôn
chính quy VC gần như bị tiêu diệt, khiến cho quân khu 7 Việt cộng, trong
đó có tỉnh Bình Thuận do tướng Bắc Việt Nguyễn Văn Ngàn chỉ huy, cũng
lâm vào tuyệt lộ. Để vớt vát cũng như vực dậy niềm tin của cán binh, cán
bộ, VC sử dụng 2 tiểu đoàn chính quy miền Bắc là 481 và 482 tấn công
vào Trung Đoàn 44 BB tại Sông Mao từ tháng 7-10/1970, đồng thời thường
xuyên tổ chức các cuộc phục kích, phá rối trên quốc lộ 1, từ đoạn đường
cây số 25 nam về tới Phan thiết và khúc ngang qua mật khu Lê hồng Phong,
từ Long Thạnh tới Lương Son, Chợ Lầu và phía bắc trong quận Tuy Phong.
Thời gian này Bình Thuận còn có sự yểm trợ của Chi đoàn 3/8 thiết
kỵ/QLVNCH và tiểu đoàn 3 thuộc Lử Đoàn 506 nhảy dù Hoa Kỳ và toán viễn
thám LLĐB/BTTM/QLVNCH, hải pháo Mỹ ở ngoài khơi, các phi tuần Mỹ-Việt
luôn tiếp ứng tỉnh mau lẹ và cấp thời, nên đã bẻ gảy tất cả Nhưng rồi
giai đọan VN hoá chiến tranh và hiệp định ngưng bắn 1973 đã thành hình,
theo đó các đơn vị chính quy của VNCH cũng như Hoa Kỳ đều rời tỉnh vào
cuối năm 1971 hoặc hồi hương hay nhận nhiệm vụ mới, giao công cuộc bình
định và gìn giữ an ninh cho các đơn vị ĐPQ và NQ của tỉnh lúc đó lên tới
13.000 người đảm trách.
Để chống địch bằng cây nhà lá vườn, Đại Tá Nghĩa đã áp dụng chiến lược
mọi người đều phải RA TIỀN TUYẾN kể cả các trưởng ty sở, phó tỉnh
trưởng, phó quận.., không bỏ đồn bót lẽ loi cho giặc về đêm. Theo lời
các nhân chứng hiện ở Hoa Kỳ như Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung Tá
Dụng văn Đối quận trưởng Hoà Đa rồi Hàm Thuận, Đại úy Mai xuân Cúc DDT
/DD 948 DPQ.. thì chính Đại tá Nghĩa là người đầu tiên xung phong làm
gương mẫu cho thuộc cấp, ông đã noi gương cố tổng thống Nguyễn văn Thiệu
luôn xông xáo tại chiến trường khi dấu binh lửa, bom đạn còn ngun ngút ,
đại tá Nghĩa đã lần lượt ngủ đêm tại 173 trong tổng số 197 tiền đồn hẻo
lánh và nguy hiểm của tỉnh, do các tiểu trung đội nghĩa quân hoặc xây
dựng nông thôn trấn giữ. Nhờ vậy đã tạo được nềm tin trong quân đội cho
tới khi mất nước. Một chiến thuật khác cũng vô cùng hiệu quả, đó là xữ
dụng hàng rào mìn claymore làm ấp chiến lược lưu động. Với phương pháp
này đã làm VC bị tổn thất nặng và gần như hoàn toàn tê liệt. bẽ gảy kế
hoạch nuôi ăn cán binh vì ai cũng sợ toi mạng khi vướng mìn vào ban đêm
khi ra vào ấp .Song song còn có chương trình đập cỏ bắn rắn, tức là ủi
quang hai bên quốc lộ 1 từ cây số 25 nam Phan Thiết cho tới Cà Ná, giáp
giới Ninh Thuận,các vùng cây cỏ rậm rạp mà trước đây VC dùng làm địa bàn
để hoạt động quân sự, thu thuế, phục kích, chặn xe đò.., mang lại tình
hình an ninh hoàn toàn trong tỉnh và tại thị xã Phan Thiết. Cũng kể từ
đó cho tới hồi tàn cuộc, cán bộ xã ấp, công chức không còn phải sống lưu
vong và việc Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu tới Phan Thiết cùng với
tỉnh trưởng săn bắn ban đêm ngay trên địa bàn của cái gọi là mật khu Lê
Hồng Phong, hay đi xe jeep trên quốc lộ 1 từ Phan thiết về Phan Rang như
lời tư sự của Trung Tá Ngô Văn Xuân, trung đoàn trưởng Trung Đoàn 44,
SD 23 BB, trong Quân Sử VNCH, là một xác nhận khích lệ.
Từ sau hiệp định ngưng bắn 1973, lực lượng ĐPQ &NQ đã được tổ chức
và phối trí lại để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Quyền chỉ huy trực
tiếp thuộc tiểu khu, chi khu và các phân chi khu. Quân số cũng được cải
tổ từ cấp đại đội thành tiểu đoàn, liên đội và Liên đoàn . Tính đến năm
1973, quân lực VNCH đã có 360 tiểu đoàn ĐPQ, quân số từ binh sĩ, HSQ tới
SQ một số là chủ lực quân biệt phái, nên có rất nhiều kinh nghiệm chiến
đấu, có đủ khả năng thay thế các SĐ bộ binh kề cả các lực lượng tổng
trừ bị trong các cuộc hành quân cơ động quy ước chiến, đáp ứng sự hổ trợ
đác lực cho các đơn vị chính quy. Theo tài liệu từ quân sử, cho tới
tháng 4-1975, lực lượng ĐPQ-NQ gần 500.000 người và số tử vong cũng
nhiều lần so với các lực lượng chính quy, diều đó chứng tỏ sự chiến đấu
dũng mảnh và can trường của họ.
Trong hiệp định Paris năm 1973, có điều khoản cắm cờ nhận đất vào giờ N
và Bình Thuận được coi là thí điểm, nơi CS Bắc việt luôn đòi trở thành
vùng vỹ tuyến. Các xã giáp tỉnh lỵ như Đại Nẵm, Phú Long, Tuỳ Hòa,Phú
Lâm có nhiều nằm vùng và thân nhân nhảy núi hoặc tập kết, nên luôn là
điạ điểm tin cậy để giặc đóng quân hay đặt BCH. Với quân số lúc đó là
13.000 ĐPQ-NQ nhưng vì phải bảo vệ 197 ấp nên đã dàn mỏng, trong khi
việt công luôn tập trung được ba tiểu đoàn địa phương, ngoài ra còn có
một trung đoàn chủ lực từ quân khu 6 tăng phái và cán binh cơ sở, nên
tình thế lúc đó cũng thật nguy hiểm. Rồi giờ G cũng tới, VC tấn công một
lúc 13 ấp trong tỉnh nhưng nặng nhất là tại ấp Đại Tài, xã Đại Nẳm. Nhờ
đã chuẩn bị trước, nên sau 2 ngày giao tranh, VC thất bại trong âm mưu
cắm cờ dành đất, một phần là do đồng bào có ý thức quốc gia không chịu
hợp tác hay đồng khởi, phần khác sợ tai bay đạn lạc nên đã bồng bế nhau
tản cư khỏi vùng chiến địa theo lời kêu gọi của tỉnh qua truyền đơn và
đài phát thanh. Cuối cùng các ấp xã chỉ còn thuần tuý là chiến địa, điểm
hợp đồng của pháo binh và phi pháo, trước khi các đơn vị DPQ-NQ mở cuộc
tấn công, làm VC phải chém ve, mang theo nhiều xác chết đồng bọn khi
tháo chạy sau 2 ngày giao tranh đẳm máu nhưng vẫn bỏ lại tại ấp Đại Tài,
xã Đại Nẳm 121 xác chết..
B-TỔNG QUÁT VỀ TIỂU KHU BÌNH THUẬN:
Về tổ chức, thì Thiếu Tá Trần Văn Chà làm tiểu khu phó kiêm Phó TT. Nội
An., về sau TT.Chà lên Trung Tá và làm trung đoàn trưởng Trung Đoàn
53/SD23BB. Đại Úy Lê Trung Hưng làm Tham Mưu Trưởng TK. Trung Úy Lữ Tây
Tựu, người PT, một sĩ quan tài giỏi và can trường, từ SD23BB được biệt
phái về giữ chức Trưởng phòng 2.TK, có phụ tá là Chuẩn Úy Mai Xuân Cúc,
khóa 20 SQTB, người PT, tốt nghiệp khóa SQ.Quân báo tại Mã Lai. Chính
Cúc trong chức vụ trưởng ban ước tính tình hình tỉnh, thường phối họp
với Phòng 3/TK bay L.19, quan sát khắp vùng từ cầu Đá Chẹt ở ranh giới
Ninh Thuận-Bình Thuận về phía bắc, cho tới Vùng Núi Ông, Bình Thuận-Lâm
Đồng và Núi Tà Cú, Binh Tuy-Bình Thuận. Do đó ông đã có một cái nhìn sắc
bén và đứng đắn về phối trí quân số DPQ-NQ tại TK.BT. Cũng năm đó,
trưởng phòng 3/TK là Trung Úy Nguyễn Văn Trị. Riêng Đại Úy Lê văn Trạch
là quận trưởng Hàm Thuận, Đại Úy Trọng QT.Thiện Giáo, Đại Úy Kiều văn Út
QT.Hải Long, Thiếu Tá Woàng Sắn Cảnh, QT. Hải Ninh, Đại Úy Lương Vặng,
QT.Phan Lý Chàm, Đại Úy Nguyễn Quang Mẫn, QT.Hòa Đa, Thiếu Tá Bùi Quang
Huỳnh QT. Tuy Phong. Về quân sự, thuở đó cấp đại đội DPQ là đơn vị cao
nhất trong tỉnh. Về phía bắc có Trung Tâm HL.DPQ-NQ Sông Mao do Trung Tá
Thanh làm chỉ huy trưởng, còn Thiếu Tá Woàng văn Thông thì làm CHT/BCH
bắc BT bao gồm 4 quận HD, TP, PLC và HN. Riêng CHT/DPQ-NQ tỉnh là Thiếu
Tá Lê Văn Thông, đóng chung với Quân vụ thi trấn và đồn quân cảnh trong
TK củ đối diện với vườn hoa và Ty ngân khố, cạnh trường nử TH. Về chủ
lực quân biệt phái, chỉ có TD2/44/SD23 của Thiếu Tá Xứng bao vùng khắp
lãnh thổ. Cuối năm 1967, Trung Tá Nguyễn Khắc Tuân thuộc tổng cục quân
huấn/BTTM về làm tỉnh trưởng BT thay Trung Tá Đinh Văn Đệ, Trung Tá Tuân
ở lại VN đi tù và chết tại Bắc Việt, theo lời kể của dưởng nữ, hiện là
chủ nhân nhà hàng Mỷ Cảnh tại Honolulu. Năm 1969, Đại Tá Đàng Thiện Ngôn
về làm tỉnh trưởng BT thay thế Trung Tá Tuân, còn Thiếu Tá Hồ Ứng Phùng
làm tiểu khu phò và Đại Úy Lê Văn Anh làm tham mưu trưởng. Trước năm
1970, DPQ hoạt động cấp đại đội nhưng nổi danh nhất là DD.DPQ của Thiếu
Úy Thô Thêm tại quận Thiện Giáo. Ngoài ra còn có DD.445 của Trung Úy
Nguyễn thanh Xuân tại Chợ Lầu và Lương Sơn. DD443 của trung uý Nguyễn
thanh Hải, từ năm 1970-1972 trưởng phòng 2.TK và thăng thiếu tá giữ chức
xã trưởng CT.Phan Thiết 1973-1975. DD206 trinh sát cuả Đại Úy Lê Văn
Trò . Trung đội tình báo TK của Thiếu Úy Nguyễn Văn Thức, sau là TP2.TK
năm 1968-1969. Mùa thu 1969, Đại Tá Nghĩa làm Tỉnh trưởng thay Đại Tá
Ngôn và cơ cấu TK gồm có TK Phó Trung Tá Trí kiêm CHT/DPQ-NQ, Trung Tá
Mai lang Luông, nguyên TDT-TD3/44/SD23 làm tham mưu trưởng, TP 1/TK
Thiếu Tá Mừng, TP2/TK là Đại Úy Ngọc về sau Đại Úy Đặng, TP3/TK là Thiếu
Tá Trị, TP4/TK Trung Tá Hoạt, TK. Chiến Tranh CT là Thiếu Tá Hồng,
Trung Tâm Trưởng HC. Tiếp vận là Thiếu Tá Phạm Minh thay thiếu tá Chung.
Quận trưởng Hàm Thuận là Trung Tá Dụng Văn Đối, QT. Thiện Giáo Thiếu Tá
Lê Văn Thông, bỏ chạy từ đầu tháng4/1975 và di tản qua Mỹ năm 1975,
Thiếu Tá Đặng Chánh Anh,QT Phan Lý Chàm, Trung Tá Diệp sắng Cảnh QT.Hải
Ninh, QT.Hải Long Thiếu Tá Hàng Phong Cao, QT. Tuy Phong là Thiếu Tá Hà
Văn Thanh và Trung Tá Kiều Văn Út, QT Hòa Đa di tản vào PT ngày
17-4-1975 khi Phan Rang thất thủ, nhiều tàu HQ đã được điều động tới yểm
trợ và vớt lính DPQ tại các quận miền bác như HQ.07 tới Cà Ná, sau đó
dược tuần dương hạm ChíLinh HQ.11 thay thế, chiến hạm này đã trúng đạn
VC bắn từ bờ ra làm chết và bị thương nhiều người. Ngoài ra còn có Hải
vận hạm Ninh Giang HQ.403, HQ 505, HQ 12..đậu đầy ngoài khơi PT, và họ
là nhân chứng vì đã nghe được những tiếng kêu cứu của các đại bàng qua
máy PR25, trong đó có tiếng Đại Tá Nghĩa, khi VC đã tràn ngập trận địa.
Từ năm 1970 về sau, trong đà cải tiến QLVNCH, các DD/DPQ được nâng cấp
thành Liên Đội hay tiểu đoàn và tình hình phối trị DPQ-BT như sau,
TD248/DPQ của Thiếu Tá Lê văn Trung tại Tuy Phong, TD212DPQ của Thiếu Tá
Quân coi Lương Sơn, Sông Lũy. TD249 DPQ của Thiếu Tá Phan Sang, BCH
đóng tại núi Tà Dôn, hoạt động tại Long Hiệp, Hòa Vinh, Tuy Hòa.
TD202DPQ của Thiếu Tá Lương văn Bính hoạt động tại Cây Táo, Long Thạnh.
Hai TD275 /DPQ của Thiếu tá Tư và TD230DPQ của Thiếu Tá Thổ Thêm, hoạt
động tại Thiện Giáo. TD274DPQ của Thiếu Tá Bình hoạt động tại Bầu
Gia,Phú Hội., Thiếu Tá Bình chết tại trại tù ở Bắc Việt. Tại Bắc BT, BCH
quân sự bãi bỏ nhưng thay vào đó là BCH. Liên đoàn DPQ do Đại Tá Lại
Văn Khuy, nguyên trung đoàn Trưởng TRD42/SD22BB về làm CHT. BCH Liên
đoàn đóng tại xã Lương Sơn, đối diện với mật khu Lê Hồng Phong, gồm 2
TD248 và 212 DPQ, hành quân tại 4 quận miền bắc. Từ tháng 3/1975, Bình
Thuận không còn Trung Đaòn 44/SD23 và Chi Đoàn 3/8/Thiết kỵ tăng phái,
vì những đơn vị chủ lực quân này đã di chuyển hết lên cao nguyên năm
1972. Để bảo vệ an ninh cho thị xã Phan Thiết, từ năm 1970 lập thêm Yếu
khu châu thành hay BCH/LD/DPQ/PT đóng tại trại Đinh công Tráng, trước
sân vận động Quang Trung, kế trường trung học Bạch Vân, do thiếu tá
Nguyễn văn Cư làm CHT. Về đơn vị Đồng Minh, quan trọng nhất vẫn là Bộ
chỉ huy MACV/TKBT đóng tại khách sạn Hồng Hưng, đối diện với trường Tiến
Đức, tức là PBC củ trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Để góp phần giải tỏa an
ninh cho bốn quận miền bắc, cũng như lộ trình đường bộ trên QL1, từ Hòa
Vinh tới Phan Rí, ngang qua mật khu Lê Hồng Phong dối diện vói các xạ
Long Phú,Lương Son,Sông Lủy, Chợ Lầu,Tịnh Mỹ,Hiệp An, Hiệp Hòa....cơ
quan MACV đã phối hợp với TK.Bình Thuận, thành lập lực lượng Dân Sự
Chiến Đấu, BCH đóng tại trại Phi Long ở xã Lương Sơn, trại Phi Mã ở xã
Phan Rí Thành cạnh Chi khu Hòa Đa, trại Phi Hổ ở ấp Tịnh Mỹ, xã Chợ Lầu,
đồn Mara ở Sông Lũy..Tất cả doanh trại Lực lượng DSCD đều có bãi đáp
trực thăng, còn các SQ,HSQ chỉ huy đều thuộc các toán A/LLDB VN và
SQ-HSQ /LLDB Hoa Kỳ làm cố vấn., chính họ đã vô hiệu hóa cái gọi là mật
khu thành cây vách cát Lê Hồng Phong của VC, nơi trú ẩn của các tiểu
đoàn địa phương 482 và 840 VC, cũng như Trung đoàn chính quy 812 Bắc
Việt của quân khu 7 VC tăng phái. Năm 1970, các trại LLDB tại Bình Thuận
đóng cửa nên Biệt kích Mỹ hay LL/DSCH cũng giải thể để thành lập các
DD/DPQ., các cấp chỉ huy được mang quân hàm Thiếu úy, còn danh hiệu là
DD700,710,720,730/DPQ/BT, sau đó nhập chung thành Liên Đội 2/32/DPQ/BT
do Thiếu Tá Nguyễn thanh Xuân chỉ huy, trách nhiệm bao vùng tư Lương
Sơn, Sông Lũy , tới ngả ba Chợ Lầu-Sông Mao. Sau năm 1972, LD2/32/DPQ
lại cải danh thành tiểu đoàn 2/212 do thiếu tá Quận chỉ huy cho tới lúc
tàn cuộc. Về các đơn vị tăng phái, có Duyên Đòan 28 Hải thuyền, hoạt
động bảo vệ vùng duyên hải Bình Thuận, từ mủi Đá Chẹt ở bắc Tuy Phong,
vào tới Mũi Đèn Nam Bình Thuận, chỉ huy Duyên Đoàn từ đầu có Thiếu úy
hải quân Nguyễn văn Thuận, cựu HS/PBC 1955-1962, đã chết trong lúc di
tản. Duyên đoàn trưởng cuói cùng là HQ.Thiếu tá Việt và Duyên đoàn phó,
Đại Uý HQ.Cat. Ngoài ra còn có Biệt đội quan sát L.19, thuộc Phi Đòan
quan sát 215, SD2 Không quân từ Nha Trang tăng phái cho TK/BT giúp
P2,3/TK bay quan sát bao vùng hành quân, mở đường và hướng dẫn pháo binh
tác xạ. Về thiết kỵ, trước năm 1973 có các chi đoàn 2 và 3/8 thuộc SD23
tăng phái., tết mậu thân 1968 trung úy Hàng phong Cao làm chi đoàn
trưởng 2/8 giải tỏa Phan Thiết, sau biệt phái về làm Quận Trưởng Hàm
Thuận từ thời Đại Tá Ngô tấn Nghĩa, cho đoàn giao lại cho Đại Uý Đệ,
nguyên DDT 948 DPQ, lúc đó hoạt động tại Tuỳ Hòa và Phú Long., đại đội
này về sau di chuyển ra Hòa Đa và giao cho Đại uý QB.Mai xuân Cúc,
nguyên trưởng ban 2/ quận Hòa Đa của Quận Đối làm Đại Đội Trưởng và
những ngày cuối cùng là đơn vị đóng trong thị xã Phan Thiết cho tới sáng
19-4-1975, Bình Thuận hoàn toàn thất thủ, mới xuống tàu về Nam.
4-ĐẠI TÁ NGÔ TẤN NGHĨA (1969-1975):
Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa đảm nhiệm chức vụ Tỉnh Trưởng Bình Thuận, từ tháng
12/1969 đến ngày 30-4-1975. Ông là vị tỉnh trưởng lâu và thành công nhất
tại tỉnh nhà, nhờ biết khai thác ba yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân
hòa. Nói chung sự thành công của ông, trong kế hoạch bình định và phát
triển tỉnh Bình Thuận, là nhờ tài lãnh đạo chỉ huy và nghệ thuật tin
dùng người, dụng nhân như mộc. Thêm vào đó là lòng dũng cảm và hy sinh,
từ khi mới bắt đầu làm Quận Trưởng Hốc Môn, tỉnh Gia Định năm 1963.
Những câu chuyện nghe rất cảm động, về vụ tự đơn thân độc mã bay trực
thăng vào Bến Cát, để nhặt thi hài người con yêu quý là Đại Uý Phi Công
Ngô Quang Lý, lái A 37, bị phòng không VC bắn rout ngày 5-8-1974 hay
đích thân cùng Cố Vấn Mỹ tại TK/BT là Philip Cook, chở máy điện tử
(Sensor) của Hải Quân Mỹ, bỏ vào các vùng ẩn náu của VC, để làm tín hiệu
cho hải pháo Hoa Kỳ tác xạ, vào năm 1973..cùng hằng trăm câu chuyện
khác, đã chứng tỏ lòng dũng cảm phi thường, cũng như đức độ của một quân
nhân biết trách nhiệm.
Bình Thuận từ sau cuộc binh biến 1-11-1963 cho tới cuối năm 1969 là vùng
bất ổn, xôi đâu. Đại Tá Nghĩa từ Pleiku xuống thay thế Đại Tá Đàng
Thiện Ngôn, làm Tỉnh Trưởng, giữa lúc tình hình tại điạ phương rất tuyệt
vọng, vì tất cả những đơn vị hùng hậu của Mỹ và đơn vị chính quy của
VNCH, đã có lệnh rút khỏi lãnh thổ. Theo lượng giá của tất cả thẩm quyền
có liên hệ tới tỉnh nhà, kể luôn đồng bào, trừ VC, qua người thương kẻ
ghét, thì Oâng đã thành công hoàn hảo trong công tác an ninh, bình định
và phát triển toàn tỉnh, dù lực lượng chỉ có DPQ và NQ mà thôi.
Dù bị chia cắt nhiều lần, Bình Thuận vẫn là một tỉnh rộng lớn và quan
trong nhất nhì Miền Trung về ngư nghiệp và kỹ nghệ chế biến hải sản. Do
vị trí đặc biệt quan trọng về tài nguyên rừng tiền biển bạc, nên 300 năm
qua, vùng đất này luôn là nơi tranh chấp của mọi thế lực, ai cũng muốn
dành chiếm để trục lợi. Ở đây, đi tới đâu, cũng thấy người dân dù là
người Thượng tây bắc như Koho,Roglai hay Chàm ,Nùng, Người Việt gốc Hoa
và người Kinh, đều hãnh diện về gia tộc gia đình mình khi có những người
đổ dạt cao và biết phụng sự cho dân tộc. Cho nên không lạ về sự tham
gia ồ ạt của cha anh ta trong mặt trận LIÊN VIỆT tức Việt Minh, một tổ
chức tự phát của toàn dân không phân biệt đảng phái, suốt chín năm kháng
chiến từ 1946-1954, để chống lại giặc Tây đã trở lại cưỡng chiếm VN lần
thứ hai. Từ đó Bình Thuận là mật khu, chiến trường, bất kể trong nội
thành Phan Thiết ngay tại ngã bảy, Chợ Lớn, Xóm Cồn, Động Làng Thiềng,
Lò Heo, Bến đò Vân Thánh cho tới những cánh đồng khô cháy vì bị bỏ hoang
bên hai bờ sông Quao,Ba Bào, Cẩm Hang, Mường Mán,cạnh những cánh rừng
già rừng thưa của khu tam giác, Láng Thang, Láng Quý, Bà Gò, Bà Chơn, Bà
Hải, Lò Thổi, Bàu Sẽ..hay nơi vùng gió cát nóng bỏng Tuy Phong, Phan
Rí, Đá Chẹt giáp ranh Cà Ná,Phan Rang qua Gò Xanh, Phú Điền, Gộp, Dốc Tơ
Hồng lên núi ra biển, ở đâu người dân cũng nức lòng đánh Pháp cứu nước.
Suy cho cùng, chính cái kết quả đói nghèo mà người Bình Thuận đã gánh
chịu suốt bao thế kỷ qua cho tới tận ngày nay, dù được sống trong cõi
tiền rừng bạc biển nhưng sự thật rừng và biển chỉ giúp cho một thiểu số
làm giàu, có con cái học nước ngoài đỗ đạt cao, tiếp tục giàu và ngồi
trên cao. Trong khi đó hầu hết dân chúng thì nghèo mạt rệp và chính điều
này đã giúp VC rủ rê họ nhập đảng ngay từ thời Pháp thuộc. Rồi hai mươi
năm triền miên chinh chiến, những người lính trận Miền Nam, xuất thân
trong giới nghèo hay trung lưu lại độc hành lo chuyện dân nước, giúp cho
một số khoa bảng tiếp tục bán xương máu quân dân để làm giàu nhờ buôn
lậu lúa gạo, thuốc men và bán tin quốc sự cho giặc. Có đuợc làm một
người lính dù thuộc các Tiểu đoàn Bộ Binh chính quy của Trung Đoàn 43
Biệt lập hay các Trung Đoàn 44,53/SD23BB hoặc KQ,TG,LLDB tăng phái hành
quân. Có là người lính DPQ-NQ Bình Thuận, người Cán Bộ XDNT,Cán Bộ Xã
Aáp, Cảnh Sát Dã Chiến..Tất cả mới cảm nhận được niềm đau quê hương
trong chiến tranh, nỗi khổ đau cùng tận của đồng bào vùng chiến nạn ,
khi hành quân qua những đồi cát hoang vu của Rạng, Mũi Né,Hòn Rơm, Bầu
Sen, Sông Lũy hay lang thang công tác trong cái tĩnh lặng u trầm buồn bã
mông mênh của Quận Phan Lý Chàm, một miền đất có bản đồ hành chánh kỳ
lạ nhất tại VNCH thời đó. Đến hành quân hay công tác vùng này, nhìn bản
đồ chậm tọa độ, ai cũng muốn nổ tròng mắt vì những vị trí cóc nhẩy. Đấy
là xóm Cầu Rang ở tận cực bắc tỉnh, gối đầu trên một con dốc cao lỡ lói
tràn bên phía tây quốc lộ 1. Rồi lại nằm mãi tận phiá nam trong xã Ma
Lâm Chàm, địa phận quận Thiện Giáo. Quận Phan Lý Chàm có huyện lỵ đóng
tại Hựu An, đối diện với xã Chợ Lầu, quận Hòa Đa, mà sự quản lý hành
chánh vô cùng phức tạp. Quận có xã Ma Lâm Chàm, về hành chánh thì thuộc
quận nhưng an ninh lại do quận Thiện Giáo. Xả Lạc Trị hành chánh thuộc
quận nhưng an ninh thuộc Tuy Phong. Xã Tịnh Mỹ và Hậu Quách, hành chánh
thuộc quân nhung an ninh do Hòa Đa đảm trách và xã Phú Nhiêu hành chánh
thuộc quận nhưng an ninh do quận Hải Ninh.
Bình Thuận xôi đậu là vậy, ra khỏi cửa ô huyện ly là cảm thấy bơ vơ lạc
lỏng lạ cảnh lạ người không cùng lối bước, dù khi đối mặt vẫn nói chung
một ngôn ngữ, cười vui hề hà nhưng sau đó có dịp thì tắc cù lính ngay,
dù lính hết lòng thương và giúp đỡ họ chân thành. Trên cái vùng đất mà
phần lớn là núi rừng, đồi cát và người dưng kẻ lạ, thật sự khó mà quy
trách nhiệm cho bất cứ một cấp Tỉnh Trưởng nào, ngoại trừ người Tỉnh
Trưởng VC nằm vùng, Trung Tá Đinh văn Đệ. Đây cũng là nơi lý tưởng của
chiến thuật du kích qua cái thế đứng hai chân, chân đồng bằng, chân nông
thôn có rừng núi, động cát và nằm vùng làm rào chắn tiếp tế che chở.
Dùng vùng này để bao vây Phan Thiết, Huyện Lỵ, cắt đường bộ, thiết lộ,
sông biển, khiến cho trục lộ cả nước bị đứt đoạn, coi như đã thành công
chia cắt VNCH một lần nửa. Bình Thuận là hậu cứ của Trung Đoàn chính quy
812 miền lâu đời,luôn có nhân lực và tiếp tế đầy đủ bổ sung băng một
vựa lúa Tuy Phong, Thiện Giáo, Hàm Thuận, cùng cá mực, thuốc men, vải
vóc đủ mọi thứ được bọn khoa bảng, hàm hộ bất nhơn giàu sụ người Bình
Thuận nhưng muôn năm ở Sài Gòn, bán lậu, cho không và chở bằng tàu
thuyền, xe đò tới giao cho kinh tài VC tại trạm thu thuế số 25, hay Mũi
Đèn, Quán Thùng, Hòn Rơm, Đá Chẹt. Đôi lúc người lính đã nghiến răng
quên đi lòng nhân đạo trước thực tế chiến tranh, khó quá làm sao cho
trọn vẹn hời giời. Đi trong lòng quê hương lúc đó thật ngao ngán, dù
Rạng,Mũi Né lối đi vẫn rợp bóng dừa nhưng làng xóm xác xơ, nhà cửa thu
vén gần đồn lính, hàng quán lèo tèo, chỉ lính ít thấy dân. Đường về Ma
Lâm còn thảm thê hơn, khúc ngang Bình Lâm bì bầm như tương, mô đáp hàng
ngày, xe lam người đi bộ lãnh mìn của bác, muôn năm.thê thảm.
.
ĐẠI TÁ NGÔ TẤN NGHĨA VÀ CÔNG CUỘC BÌNH ĐỊNH PHÁT TRIỂN BÌNH THUẬN TỪ 1969-1975:
Bình Thuận có bảy quận và tỉnh lỵ Phan Thiết nhưng tình hình an ninh
trước năm 1970 rất tồi tệ. Tại Tuy Phong có nhiều vùng xôi đậu, nguy
hiểm như các Aáp Bình Long (Bình Thạnh), Vĩnh Hảo( Vĩnh Hoà) và Tuy Tịnh
Việt. Các Aáp Vĩnh Hảo, Tuy Tịnh Việt được bình định hoàn toàn vào năn
1967. Riêng Aáp Bình Long vì tình hình an ninh, nên vào năm 1971, Đại Tá
Ngô Tấn Nghĩa, Tỉnh Trưởng BT đã cho dời vào vòng đai Thị Trấn Long
Hương. Trong quận Hòa Đa, thời kỳ Đại Uý Đổ quang Mẫn làm Quận/Chi khu
Trưởng năm 1967, đã bình định được các Aáp Duồng (Thượng Văn), các Aáp
Lâm Lộc 1,2,3 xã Phan Rí Cửa. Từ năm 1970, Đại Uý Dụng văn Đối về làm
Quận/CKT/HD đã bình địng được các Aáp xôi đậu Phú Hải (Phan Rí Cửa),
Liêm Bình, Long Lễ (Phan Rí Thành). Quận Phan Lý Chàm hoàn toàn không có
hạ tầng cơ sở VC nên không có vùng xôi đậu. Tại Hải Ninh chỉ có Aáp
Xuân Quang mất an ninh nhưng cũng được vãn hồi sau năm 1970. Quận Thiện
Giáo do vị trí địa dư đặc biệt, lại tiếp cận với các mật khu có thời kỳ
Việt Minh kháng Pháp như Lê Hồng Phong, Động Bà Hòe, Nam Sơn, Tam Giác,
Dân chúng trong vùng ít nhiều có thân nhân nhảy núi tập kết, kháng
chiến..cho nên phần lớn lãnh thổ bị coi như là vùng xôi đậu tại Long
Hiệp, Hòa Vinh, Tùy Hòa, Bình Lâm, Tân An, Tân Điền..Từ năm 1972-1973,
Thiếu Tá BDQ.Hồ Quang Lượng về làm Quận/CKT/TG đã bình định hết các vùng
xội đậu trên, kể cả Aáp Bình Lâm là sào huyệt của du kích, chấm dứt nạn
đáp mô, đào đường, giật mìn, ám sát viên chức xã ấp, mang lại an ninh
hoàn toàn trên Liên tỉnh lộ 8, từ Phan Thiết đi Ma Lâm lên tới Sông
Quao, Cầu Trại, Gia Bát. Quận Hải Long nói chung tình hình an ninh tốt,
nhờ các Quận/CKT như Trung Tá Kiều văn Uùt, Thiếu Tá Hàng Phong Cao.
Quận Hàm Thuận năm 1965 có nhiều Aáp Xã xôi đậu như Mường Mán, Phú Hội,
Tường Phong, Đại Nẳm. Riêng xã Kim Bình coi như mất an ninh hoàn toàn,
ngoại trừ Aáp Kim Hải vùng xôi đậu, tuy nằm sát Aáp Đức Long của Thị Xã
Phan Thiết.
Khi Đại Tá Nghĩa về nhậm chức, thì lãnh thổ bị địch chiếm gần 90% và
ngay tại Phan Thiết, ban ngày thuộc ta, ban đêm bị VC về hoành hành, ám
sát, tấn cộng đốt phá các trụ sở Aáp Hưng Long,Phú Trinh,Đức Long, Đức
Nghĩa..dù trước năm 1970, tỉnh được tăng phái 2 Trung Đoàn của SD23BB,
Chi đoàn 2/8 thiết kỵ, các đơn vị thuộc SD 101 Nhảy Dù Hoa Kỳ và Hải
Pháo của Mỹ, cộng với lực lượng DPQ và NQ tỉnh, nhưng tình hình vẫn tồi
tệ. Trong khuôn viên Tòa Hành Chánh đầy công sự phòng thủ, kẽm gai, hầm
trốn đạn. Phan Thiết mà còn như vậy, thì tại các quận còn tệ hại trăm
lần. Trầm trọng hơn là việc tất cả các trục giao thông trong và ngoài
tỉnh đều bị tắc nghẽn. Trên quốc lộ 1, VC công khai đặt hai tram thu
thuế tại số 25 và Cây Táo, khiến cho các hãng xe đò phải ngưng chạy, nên
việc đi lại chỉ còn đường biển và máy bay quân sự. Hàng không VN có một
chi nhánh tại Phan Thiết nhưng vì phi trường quá nhỏ, nên các chuyến
bay rất hạn chế và thường là trạm chuyễn tiếp giữa Sài Gòn-Nha Trang.
Việt Cộng mỗi ngày một lộng hành, ngoài việc dành dân chiếm đất, sát hại
viên chức xã ấp, công khai thu thuế, còn gài mìn phá Ty Bưu Điện, Lầu
nước và cho đặc công đem pháo vào đốt trong lớp học, để làm rối loạn cả
chốn học đường.Tình trạng hỗn loạn trên, làm cho người dân Bình Thuận
gần như không còn tin tưởng vào Chính quyền Quốc Gia lúc đó. Để vãn hồi
an ninh trật tự trong tỉnh, Đại Tá Nghĩa đã triệt để áp dụng tình báo
trong mọi lĩnh vực , từ quân sự cho tới tâm lý chiến, dùng phương châm “
dân vi quý”, lấy dân làm khởi điểm để nhờ vào tình báo nhân dân mà
triệt hạ tất cả cơ sở hạ tầng VC đang bám vào dân. Oâng cũng đã đề ra
chiến thuật 5 bước , để bình định phát triển tỉnh. Nhờ sự Tỉnh Trưởng
hàng đêm tới ngủ chung với binh lính, cán bộ, nghĩa quân và đồng bào
ngay tại thôn ấp, tiền đồn hiểm nguy mà chấm dứt được nạn lính ma,lính
cậu và đem lại tinh thần chiến đấu cho tất cả các đơn vị DPQ+NQ đang
trực diện với kẻ thù trên mọi chiến trường. Trong mặt trận chiến tranh
tâm lý, Oâng cũng cho cải tổ lại những sự cố đã xảy ra làm mất lòng dân,
liên hệ tới nông ngư nghiệp, ty xã hội và ngân hàng phát triển nông
nghiệp. Việc Ty Cựu Chiến Binh được thành lập với công tác giúp đỡ trực
tiếp các đối tượng CCB, đem tiền phát cho họ ngay tại các quận và hải
đảo Phú Quý mỗi tam cá nguyệt, xây Làng Phế binh Vĩnh Thủy, cấp tiền sửa
nhà..đã chấm dứt tình trạng chiếm đất bất hợp pháp của thương phế binh
Bình Thuận, do một vài phần tử xấu xúi giục để trục lợi. Nhưng quan
trọng nhất vẫn là lãnh vực quân sự như thay đổi vùng hoạt động của các
đơn vị DPQ-NQ để chấm dứt nạn tình cảm hay nội tuyến. Riêng kế hoạch
dùng mìn Claymore làm hàng rào ấp chiến lược lưu động, giúp các đơn vị
DPQ-NQ phòng thủ đêm hữu hiệu, lại ngăn chận được sự xâm nhập của du
kích về ấp hay thân nhân đem tiếp tế ra bưng bởi vướng mìn làm thiệt hại
rất nhiều nhân mạng. Chiến thuật trên đã khiến các hoạt động của VC gần
như khựng lại và an ninh gần như được vãn hồi ngay tại xã ấp ,kể cả
những nơi như Bình Thạnh, Long Hiệp, Bình Lâm, Đại Nẳm..nhưng vùng mà VC
coi như mật khu an toàn. Do trên dân chúng lần lượt hồi cư và sống yên
ổn qua bảo vệ của DPQ-NQ cùng các Toán XDNT. Cũng từ đó, TK/BT không còn
lo việc thiếu quân số như trước vì đã có mìn Claymore lớp trong lớp
ngoài canh gác, yểm trợ cho người lính. Đơn vị đầu tiên gây chấn động và
có kết quả cụ thể trong kế hoạch trên là DD238/DPQ/BT cơ hữu của Chi
Khu Phan Lý Chàm, do Đại Uý Đặng Chánh Anh, làm CKT. Do những chiến công
đã thu được tại Liêm Bình, Thoại Thủy,Long Lễ, Minh Mỵ..nên DD238/DPQ
lúc bấy giờ do Thiếu Uý Lê văn Mùi làm DDT và Thiếu Uý Ngô Trúc Khánh là
DDP, đã được Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa ,Tỉnh kiêm TKT/BT tuyên dương trước
toàn thể DPQ-NQ tỉnh ngay sân cờ Toà Hành Chánh.. Ngày 1/10/1970 một
buổi lễ được tổ chức tại sân cờ chi khu Hòa Đa, đón phái đoàn cố vấn Hoa
Kỳ cạnh BTL/QD2. Trong dịp này, Tướng Cố vấn Trưởng Quân Đoàn đã thay
mặt Chính Phủ Mỹ, gắn huy chương Lục Quân Bội Tinh cho hai sĩ quan/DPQ
là Lê văn Mùi và Ngô Trúc Khánh. Cũng từ đó tới ngày 18-4-1975, kế hoạch
được phát triển toàn diện tới mọi cấp trong lực lương DPQ,NQ,XDNT kể cả
CSDC với mỗi người một mìn claymore tự động, khiến cho tất cả các đơn
vị đều kiêu hãnh về niềm tin quyết thắng. Ngược lại, các hoạt động của
VC gần như hoàn toàn tê liệt , chấm dút nạn khủng bố,kinh tài, xâm nhập,
ám sát và khuyấ động biểu tình làm loạn tại Phan Thiết như cơm bữa
trước năm 1970. Ngoài ra nhờ chương trình ủi quang hai bên quốc lộ 1,
nên đã kiểm soát được an ninh hoàn toàn trên các trục lộ giao thông, nối
lại các tuyến đường bộ với xe cộ đủ loại di chuyển nhộn nhịp ngày đêm
từ ranh giới Bình Tuy ở cây số 25 ra tới cầu Đá Chẹt, tiệp cận với Cà
Ná,Ninh Thuận. Từ đầu năm 1972, trước khi thi hành hiệp định ngưng bắn,
hầu hết các đơn vị tăng phái cho Bình Thuận đều di chuyển đi nơi khác.
CHI KHU HÒA ĐA THÀNH CÔNG TRONG CHIẾN DỊCH BDPT : Tình hình an ninh của
Hòa Đa cũng tồi tệ không thua gì quận miền núi Thiện Giáo. Hòa Đa có 5
xã, 21 ấp là Thượng Văn, Phan Rí Cửa, Pha Rí Thành,, Chợ Lầu và Lương
Sơn và hầu như xã nào, ban đêm cũng bị VC về tuyên truyền và thu thuế,
nên Quận không có ngân sách đài thọ lương bổng và văn phòng phẩm, ngoại
trừ xã thị tứ Phan Rí Cửa, mà cũng chỉ tự túc có 25 % ngân sách. Ngay
khi nhậm chức năm 1970, Đại Uý Dụng Văn Đối, Quận/Chi khu trưởng Hòa Đa,
đã phân chia lãnh thổ thành 5 phân chi khu, một kế hoạch đầu tiên về sự
thành lập phân chi khu trong chi khu, về sau được Bộ TTM áp dụng, trên
toàn lãnh thổ VNCH. Thành phần sĩ quan được bổ nhiệm như sau : Đại Uý
Chi khu phó Lê Viết Lợi, coi PCH Lương Sơn, Thiếu Uý Nguyễn Đa, trưởng
ban 2 coi PCK Chợ Lầu, Trung Uý Nguyễn Nha, trưởng ban 3 coi PCK Phan Rí
Thành, Trung Uý Tăng Văn Đồng, trưởng ban 5 coi PVK Phan Rí Cửa và
Thiếu Uý Vai Văn Hùng, trưởng ban 1 coi PCK Thượng Văn.Lực lượng PCK gồm
các Trung Đội NQ ghép lại thành Đại Đội và các Đoàn XDNT, cảnh sát và
NDTV. Nhiệm vụ của Phân Chi Khu trưởng là chỉ huy trực tiếp các đơn vị
trong xã ấp, để giữ gìn an ninh tại điạ phương..
Quận Trưởng Dụng Văn Đối sinh tại Bình Thuận, cựu học sinh PBC
1954-1959, SQ.Thủ Đức khóa 12, từng theo học các khóa huấn luyện Biệt
động và rừng núi sình lầy tại TTHL.BDQ.Dục Mỹ, lớp tác chiến chống du
kích tại Mã Lai Á. Ngoài ra còn là HLV chiến thuật tại TTHL.Vạn Kiép,
nên rất có kinh nghiệm trong việc bình định phát triển và chống lại du
kích chiến của VC. Tại Hòa Đa, đầu tiên Đại Uý Đối mở chiến dịch Đồng
Tâm tại xã Chợ Lầu, trong đó có ấp Xuân Quang là quê hương của Thượng Tá
VC Ích Dèo, Tỉnh Đội phó Tỉnh Đội Bình Thuận. Chiến dịch kéo dài 3
tháng, đã thành công trong việc triệt hạ tất cả các cơ sở hạ tầng, du
kích tại địa phương. Tham dự chiến dịch, ngoài lực lượng cơ hữu của chi
khu, còn có TD 61 CBCD của Trung Tá Vũ Thượng Dôn, khai quang và thiết
lập vòng đai an ninh các ấp trong xã. DD296DPQ đã chạm và tiêu diệt toàn
bộ DD đặc công NU của VC tại trục giao liên Bà Ghe và Lê Hồng Phong.
Tiếp theo là Chiến Dịch Đồng Tiến mở ra, để bình định xã Phan Rí Cửa,
bắt được nữ bí thư xã, cũng như tiêu diệt tòn bộ hạ tầng cơ sở, đem lại
an ninh cho thị trấn biển. Cuối cùng là Chiến dịch Phụng Hoàng, bình
định ba xã Thượng Văn, Phan Rí Thành và Lương Sơn, khai thông quốc lộ 1
từ Dồn Cây Táo tới Chợ Lầu. Chiến dịch rất qui mô với sự tham dự của
Liên Đội DPQ của Thiếu Tá Nguyễn Thanh Xuân cùng các DD296 và 948 DPQ,
NQ, Chi Đoàn 2/8 Thiết ky của Đại Uý Hàng Phong Cao,
TD3/44/SD23BB..Chiến dịch thành công hoàn toàn và được Trung Tướng Ngô
Du,tư lệnh QD2 xuống Phan Thiết, gắn lon, tưởng thưởng. Tiểu Đoàn 61
công binh từ đó có trách nhiệm khai quang và tu bổ lại quôc lộ 1 như là
một phương tiện chính, không cần phải dùng không vận hay đường biển như
trước kia.Từ đó chấm dứt tình trạng tị địa ban đêm của viên chức xã ấp
và trên hết quận Hòa Đa đã tự túc được 100% ngân sách , mà không cần tới
sự giúp đỡ của tỉnh.
Từ thành quả trên của quận Hòa Đa, tháng 11-1970, Đại Tá Nghĩa đã chỉ
thị các quận khác trong tỉnh áp dụng theo kế hoạch trên. Ngày 26-3-1971,
Dụng văn Đối được TT Nguyễn Văn Thiệu đặc cách Thiếu Tá.
Tóm lại chỉ trong thời gian ngắn, Đại Tá Nghĩa đã hoàn toàn bình định
xong tỉnh Bình Thuận, thu phục và lấy lại lòng tin trong dân chúng trước
sự an ninh toàn vẹn lãnh thổ. Nhiều người gọi đó là một phép lạ. Và
cũng do tài trí đảm lược hơn người, nên nhiều lần TT Nguyễn Văn Thiệu cử
làm Tư Lệnh SD23BB nhưng ông đã từ chối, ngoài ra còn xin giải ngũ vì
đã ở trong quân đội quá thời gian pháp định nhưng không được chấp thuận.
Một điểm quan trọng khác khi nói tới Đại Tá Nghĩa là sự dùng Người cũng
như tình thương thuộc cấp. Những chuyện trong thâm cung có liên quan
tới Trung Tá Hồ Đắc Nhị, Thiếu Tá Lê Văn Trung, Thiếu Tá Bác sĩ Đinh
Xuân Dũng hay phó tỉnh trưởng Cao Minh Khiêm, cháu ruột của Linh mục Cao
Văn Luận, đã minh chứng được tư cách cấp chỉ huy của Đại Tá Nghĩa. Sau
rốt, việc ông chọn Đốc sự Phạm Ngọc Cửu làm Phó Tỉnh Trưởng HC thay Cao
Minh Khiêm, là một thái độ khôn ngoan và đứng đắn, nhờ đó trong suốt
thời gian qua, Phó Cửu đã phần nào cùng với Tỉnh Trưởng chia sớt và gánh
vác những trách nhiệm nặng nề, trong việc bình định và phát triển tỉnh
Bình Thuận.
Để thích ứng với tình hình chính trị, chống lại việc dành dân chiếm đất
khi hiệp định có hiệu lực vào tháng 1/1973, Tiểu khu đã hoán chuyển Vùng
các CKT/Quận như Thiếu Tá Dụng văn Đối từ Hòa Đa về Hàm Thuận, Thiếu Tá
Hàng phong Cao từ Hàm Thuận đi Hải Long, Trung Tá Kiều văn Uùt từ Hải
Long đi Hòa Đa. Tại Hải Ninh, Thiếu Tá Slen Cam Vo, làm quận trưởng thay
Trung Tá Diệp Sắng Cảnh về làm CHT/BCH Sông Mao, Thiếu Tá Lư Thái Nhàn
làm quận trưởng Phan Lý Chàm, thay Thiếu tá Đặng Chánh Anh về phòng
Thanh Tra TK/BT. Hai Thiếu Tá Dụng văn Đối và Hàng Phong được Đại Tá
Nghĩa đề nghị và đã có Nghị định thăng chức TRUNG TÁ từ tháng
4-1975..Cũng đổi vùng hoạt động của Tiểu Đoàn 248/DPQ từ Tuy Phong vào
xã Phú Hội-Hàm Thuận, TD275/DPQ tại Thiện Giáo ra Tuy Phong thế TD248.
Tiểu Đoàn 202/DPQ thay thế TD212/DPQ trấn giữ Lương Sơn và khu Lê Hồng
Phong..Các Đại Đội DPQ và Liên Đội Nghĩa quân biệt lập cũng thay
vùng.Nhờ sự điều động kịp thời và hợp lý trên, TK/Bình Thuận đã toàn
thắng vào giờ G, khi VC đồng loạt tấn công vào 13 Aáp trong tỉnh và sau 2
ngày giao chiến, cuối cùng không một tấc đất nào lọt vài tay địch, trái
lại VC đã bỏ tại Đại Nẳm 121 xác chết.
Thành công trên mọi mặt, đem lại hạnh phúc và sự thương mến của đồng bào
Bình Thuận trong suốt thời gian làm Tỉnh Trưởng từ 1969-1975 nhưng Oâng
chẳng những trở thành kẻ thù của VC mà còn là người không thể đội trời
chung của những thành phần phá hoại, nhất là sau cuộc bầu cử Tổng Thống
và Quốc Hội VNCH 1971, sự đắc cử của Giáo Sư Nguyễn Quốc Biền và Quân Y
Sĩ Thiếu Tá Đinh Xuân Dũng. Từ tháng 3/1975 tình hình miền Trung trở nên
bi thảm khi Ban Mê Thuột thất thủ, rồi hai cuộc lui quân đảm máu của
QD1 và 2 nhưng Bình Thuận vẫn yên tĩnh và giải giới được đoàn quân di
tản ô hợp khi đi ngang qua Phan Thiết. Ngày 7/4/1975 Tướng Phạm văn Phú
trên đường từ Nha trang về, đã ghé BCH.tiền phương của TK/BT đóng tại
Lầu Ông Hoàng, Phú Hài trước khi về Sài Gòn rồi tự sát ngày 1-5-1975 khi
VC cưỡng chiếm được Miền Nam VN.
5-THÁNG TƯ ĐEN 1975 TẠI BÌNH THUẬN :
Mũi Né, thời nào cũng là một vị trí chiến lược, dồi dào hải sản , con
mắt dòm ngó kiểm soát và uy hiếp mặt biển đường tiếp tế từ Hà Nội vào
khu Lê Hồng Phong tại Hòn Rơm, Thiện Khanh, Thiện Nghiệp..cho nên trong
suốt cuộc chiến, VC luôn tìm cách chiếm lĩnh khu vực này nhưng luôn luôn
bị thất bại. Mũi Né là một mũi đât nhỏ nhô ra biển, chiều dài 3km,
chiều ngang chừng 1,5km, cách Phan Thiết 22 km, phía bắc là động cát
trắng, nối tiếp với rừng Bình Nhơn, cây cồi thưa cằn. Trong thị trấn
quận lỵ có hai xã Thạch Long, Khánh Thiện, dân chúng làm rẩy, nhưng đại
đa số sống bằng nghề biển và muối mắm. Vì là cái gai cần phải nhổ, nên
ngày 14-4-1953 VC dánh chiếm và làm chủ Thạch Long trong 10 ngày, sau đó
bị đuổi dánh khỏi Mũi Né cho tới ngày 19-4-1975 mới mò vào khi quận lỵ
đã bỏ ngỏ. Theo VC, từ sau năm 1970 qua chương trình bình định của Đại
Tá Nghĩa, đã khiến các cơ sở nằm vùng cũng như bộ đội trong tỉnh lâm vào
tình trạng gần như bế tắc và bị tổn thất nặng nề , trong đó phần lớn do
mìn Claymore gây ra. Từ sau Phước Long thất thủ vào đầu năm 1975, tiếp
theo là Ban Mê Thuột mất ngày 14-3-1975, VC Bình Thuận bắt đầu ngoi lên
và phá hoại khắp nơi như đốt các cây xăng số 6,8, tấn công đồn cảnh sát
Đức Long. Từ ngày 5-4-1975, Chi Khu Thiện Giáo di tản chiến thuật trên
Liên tỉnh lộ 8 .Nhân dịp này, thiếu tá quận trưởng Lê văn Thông đã trốn
về Sài Gòn. Tại quận Hải Long, phân chi khu Thiện Khánh, là một xã chiến
lước, cửa ngỏ phía nam dẫn vào thị trấn Mũi Né. Từ năm 1973 về sau, do
tình hình an ninh khả quan, nên đơn vị nồng cốt , hoạt động lâu đời tại
đây là DD290DPQ/BT, của Đại Uý Sâm, đã thuyên chuyển về cây số 25, phía
nam Bình Thuận-Bình Tuy, quận Hàm Thuận. Về an ninh nội địa đều do các
Liên đội Nghĩa quân của các Phân chi khu đãm trách. Lãnh thổ chiến thuật
của Thiện Khánh(Rạng) có chiều dài trên 7 km, kéo dài từ Đá Ông Địa
phiá nam dốc Lầu Ông Hoàng, tới Cầu Thiện Nghiệp về phía bắc., với lực
lượng phòng thủ gồm 5 Trung đội Nghĩa quân phụ trách, trong đó quan
trọng nhất là tuyến chận mũi công tác Hồng Hải của VC, gồm có ba trung
đội thường xuyên hành quân tại khu tứ giác từ Triền tới rừng Tà Quang.
Tại Bình Thuận, từ đầu tháng 4-1975, gần như tràn ngập người tị nạn khắp
miền Trung đổ xô về bằng đủ mọi phương tiện, đường bộ, tàu thuyền..và
được Ty Xã Hội trợ cấp giúp đở tận tình. Để giải toả bớt căng thẳng
trong thị xã, từ ngày 13-4-1975,Tỉnh cho thành lập tại Thiện Khánh và
Thiện Nghiệp các trung tâm tiếp cư tạm thời dưới các rặng dừa và sân vận
động, để chờ tàu HQ vào di tản họ tới Vũng Tàu. Do trên tình hình tại
Hải Long thêm phức tạp, một phần từ những phần tử xấu như đào binh, đặc
công trà trộn gây rối loạn, cũng như công khai cướp bốc tài sản của dân
chúng tại địa phương. Mặt khác, bọn VC nằm vùng thừa cơ hội dậu chưa đổ,
nhưng bìm đã leo khắp nơi với sự ra đời của cái gọi là ủy ban khởi
nghĩa, may sẳn cờ, khẩu hiệu..và các đội tự vệ võ trang em bé quàng khăn
đỏ.. Từ ngày 15-4-1975, tình hình Hải Long càng thêm nặng nề vì có
nhiều đơn vi từ QD1 và 2 ngoài Trung đến đây bằng đường biển. Vì không
thể để cho họ kéo về Phan Thiết, nên Quận Trưởng là Thiếu Tá Cao, đã cho
lập tại Thiện Khánh một nút chận chiến lược, thanh lọc và tước bỏ vũ
khí các quạn nhân di tản. Tóm lại, thì tới ngày 17-4-1975 Chi Khu Hải
Long chưa loan và tất cả các đại bàng kể cả quận trưởng Hàng phong Cao
vẫn có mặt , trong các vị trí phòng thủ gần như 24/24. Tại cứ điểm Phú
Long trên QL1, VC tung vào D15 và 840 quyết chiếm cho được cầu để đại
quân di chuyển nhưng bị sự chống trả rất mảnh liệt của các Dơn vị
DPQ-NQ, trong đó có DD của Đại Uý Nguyễn Chánh Trúc, người PT, cựu học
sinh PBC 1955-1963. Ngày 18-4-1975, quân đoàn 2 Bắc Việt , từ Phan Rang
đã vào tới Phú Long, cho lữ đoàn xe tăng và bộ binh tiền phương, hợp lực
với VC Bình Thuận nhổ chotá DPQ.BT tại Phú Long, Phước Thiện Xuân, Tân
Phú Xuân bên tỉnh lộ 8. VC cũng pháo kích vào BCH1 của TKBT tại Lầu Ông
Hoàng, cắt đứt đường đi Mủi Né, khiến cho đồng bào tị nạn tại Rạng, lại
bồng bế đổ xô về Quận, tìm cách đào sanh . Cũng trong đêm 17-4-1975, nhờ
còn túc trực tại các công sự phòng thủ, nên Nghĩa quân đã báo cho
DD/DPQ của Trung Úy Lợi, rút từ Giếng Triền, qua Bầu Sen về Mũi Né,
thoát được bãi mìn của Phân chi khu Thiện Khánh. Từ sáng 18-4-1975, dù
chưa chạy nhưng BCH.Chi khu trong đó có Thiếu Tá Cao và Đại Uý Vương
Thành, Chi Khu Phó đã xuống tàu chỉ huy..Cũng từ giờ phút đó, tình hình
đã trở nên nguy ngập, vì các lộ quân Bắc Việt từ Phan Rang, Lâm Đồng
tràn về, nên Tiểu Khu cho lệnh các đơn vị tuỳ tiện di tản sao cho an
toàn và bằng mọi cách kiếm tàu thuyền chạy về điểm tập trung quân BT tại
Vũng Tàu. Lúc này, Đại Tá Nghĩa cùng BCH cũng đã bỏ Lầu Ông Hoàng, theo
đường biển rút về Thương Chánh, trong lúc đó ngoài khơi, tàu HQ qua lại
đông đảo nhưng mặc dù nghe máy PRC25 kêu cứu của Tỉnh Trưởng cũng vẫn
bó tay ví tàu lớn không thể nào áp sát bờ được, hơn nữa pháo VC từ bờ
lại bắn ra tàu như mưa. Tính đến 9 giờ đêm ngày 18-4-1975, VC đã chiếm
được TK,Toà HC và các kho trống không, vì từ đầutháng 4-1975, Đại Tá
Nghĩa đã cho dời Trung Tâm Tiếp Vận Bình Thuận xuống gần bến tàu Kim Hải
và trước khi di tản, Trung Tá Đối cũng đã ra lệnh đốt các kho này.
Riêng nhà máy điện cũng không hoạt động được, vì Phó Cửu cũng đã cho phá
trước khi di. Tuy nhiên ven Phan Thiết, vẫn còn nhiều đơn vị DPQ chống
trả và tại bải Kim Hải, QLVNCH vẫn còn làm chủ cho tới hết ngày
19-4-1975. Tại Hải Long, ngày 18-4-1975 VC vẫn chưa dám bén mản tới vì
còn nhiều đơn vị VNCH hiện diện, thêm vào còn có DD290/DPQ của Đại Uý
Sâm, từ LOH cũng rút về Mũi Né, tìm đường ra biển. Cuối cùng trước khi
VC tới Mũi Né ngày 19-4-1975, thì một chiếc xà lan đã ủi bãi tại Thạch
Long, vớt hết quân nhân có mặt, đưa ra tàu HQ 505 về Vũng Tàu, cùng lúc
với Đại Tá Nghĩa cũng vừa tới. bằng tàu HQ khác tại PT. Bắt đầu ngày
20-4-1975, BT coi như đã lọt vào tay Hà Nội, VC lập ra ủy ban quân quản
thị xã, do thiếu tá VC Từ quảng Tuyên làm Chủ tịch, khắp nơi lập ra 16
địa điểm để các quân, công,cán,cảnhVNCH tới khai báo trình diện .
Sau ngày 7-4-1975, tình hình đã bắt đầu hổn loạn vì Ninh Thuận, Bình
Thuận đã trở thành vùng hỏa tuyến. Sau này tại hải ngoại, có dịp tiếp
xúc với những thẩm quyền của Bình Thuận trong phút giờ hấp hối như Đại
Tá tỉnh trưởng Ngô tấn Nghĩa, ông Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, Trung
Tá Dụng văn Đối, quận trưởng Hàm Thuận và các đại úy Nguyễn chánh Trúc,
DDT giữ cầu Phú Long nhưng quan trọng nhất là tự sự của Đại Úy Mai xuân
Cúc, đại đội trưởng ĐĐ 948 ĐPQ là đơn vị giữ an ninh trong thị xã Phan
Thiết cho tới giờ phút cuối cùng.Tóm lại không giống như nhiều tỉnh thị
khác, Bình Thuận vào những giờ phút hấp hối , đã không có những trận
đánh không có đại bàng như một tác giã nào đã viết trong mấy năm trước,
vì tất cả đại bàng từ cấp thấp nhất như thiếu uý Phùng thế Xương phân
chi khu trưởng Hòa Vinh, quận Thiện Giáo, cho tới các đại bàng cao cấp ở
quận như Trung Tá Dụng văn Đối, và trên hết là đại tá tỉnh trưởng Ngô
tấn Nghĩa đều không bỏ chạy. Riêng các cấp chỉ huy từ Trung Đội, Đại
Dội, Tiểu Đoàn, không một ai bỏ chạy trước đêm 18-4-1975.
Sự sụp đổ nhanh chóng của QLVNCH từ khi Ban mê thuộc thất thủ, tiếp theo
là cuộc di tản đẳm máu trên liên tỉnh lộ 7-B và Quân đoàn 1, cuộc lui
binh tại Qui Nhơn., Quảng Ngãi..khiến cho vòng vây bao quanh Sài Gòn
càng lúc càng thu hẹp. Mặt bắc, Phan Rang và Phan Thiết trở thành vùng
hỏa tuyến phải đương đầu với nhiều lộ quân hùng hậu của cọng sản Bắc
Việt có đầy đủ tăng, pháo hiện đại do Liên xô, Trung Cộng và các nước
Động Âu trong toàn khối cọng sản quốc tế viện trợ. Trong lúc đó, VNCH
đang lâm vào tuyệt lộ vì đồng minh Hoa Kỳ đã cạn tào ráo mán, rút ván
qua sông, ngoài ra còn đem danh lợi cò mồi một số tướng lãnh miền nam bỏ
nước ôm của chạy, khiến cho QLVNCH bốn bề thọ địch, chỉ còn chờ chết mà
thôi. Ngày 4-4-1975, hai tỉnh còn lại của QD2 là Ninh Thuận và Bình
Thuận được sáp nhập vào QD3 lúc đo do tướng Nguyễn văn Toàn làm tư lệnh,
bổ nhiệm thiếu tướng Nguyễn vĩnh Nghi làm tư lệnh tiền phương QD3, chỉ
huy mặt trận Phan Rang, vốn là quê hương của tổng thống Thiệu. Trong dịp
này Phan Thiết cũng được tăng cường trung đaòn 6 và một pháo đội thuộc
SD 2 BB vừa di tản từ Quãng Ngải vào Bình Tuy. Tại Phan Thiết, thời gian
này đã giao tranh ác liệt với Trung đoàn 812 chính quy và các tiểu đoàn
địa phương VC, nhưng đã giữ vửng được phòng tuyến nhờ sự yểm trợ của
phi pháo và hỏa pháo VNCH. Ngày 16-4-1975 mặt trận Phan Rang tan vở, các
tướng lảnh Nghi, Sang, đại tá Nguyễn thu Lương và nhiều sĩ quan cao cấp
khác của VNCH bị bắt làm tù binh. Từ đó Bình Thuận là chiến tuyến về
hướng tây bắc, phiá nam Bình Tuy vẫn còn nhưng đường bộ bị bít vì giao
tranh long trời lở đất đang nổ tung tại Xuân Lộc , Long Khánh từ ngày 9
cho tới 14/4/1975.
Vào ngày 2/4/1975, đại đội 948 ĐPQ đang đóng tại Ấp Hiệp Hòa, xã Chợ Lầu
, quận Hòa Đa thì được lệnh Trung tá quận trưởng Kiều văn Út theo chỉ
thị của P3 TK , về tăng cường thị xã Phan Thiết. nhưng đóng quân tại
trường nông lâm súc Phú Long , bảo vệ Trung đội pháo binh đóng gần cầu
đang yểm trợ hỏa pháo cho chi khu Thiện Giáo. Ngày 3-4-1975, đoàn di tản
từ Nha Trang-Đà Lạt về trong đó có đủ mọi quân binh chủng kể luôn
trường võ bị quốc gia , nổ súng bắn loạn xạ làm cho dân chúng sợ hãi và
trước khi ra đi đã cướp bốc cũng như đốt chợ lớn Phan Thiết được xây
dựng từ năm 1899. Lúc này tại khu vực Phú Long và các vùng lân cận,
ngoài ĐĐ 948 của ĐU Cúc từ Hòa Đa về tăng cường, còn có DD 283 DPQ của
DU Nguyễn văn Ba giữ Tuỳ Hòa, DD 3/TD 249 DPQ của DU Hòa phụ trách xã
Hòa Vinh, nên tình hình an ninh cũng khả quan, ngoài các vụ pháo kích,
bắn sẽ vào ban đêm mà thôi. Vào ngày 15-4 75 chi khu Thiện giáo tại
huyện ly Ma Lâm được lệnh di tản chiến thuật vì không chịu nổi đại pháo
130 ly của VC, TD230/DPQ của Đại Uy Mai Vi Thành và TDP là Đại Uý Trần
Đăng Thiệt, cũng rút về cố thủ Phan Thiết. Ngày 16-4-75 lại thêm một
đoàn quân xa đông đảo gồm đủ mọi thứ binh chủng như Dù, BDQ, Sư đoàn 2
BB, DPQ..từ Phan Rang cũng qua cầu Phú Long, để di tản về Sài Gòn sau
khi Ninh Thuận mất. Lúc này tình hình trong thị xã Phan Thiết đã bắt đầu
hổn loạn, nhiều gia đình kể cả công chức đã cuốn gói ra đi bằng thủy
lộ, trong phố hầu như chỉ còn lại người nghèo không có phương tiện đào
sanh, các hàng cột đèn không có chân và lính, cảnh sát, XHNT ở lại mà
thôi. Từ ngày 10/4/75 DĐ948 DPQ của DU Cúc đổi vùng, di chuyển về đóng
cạnh căn cứ của Duyên đoàn 28 HQ sát cửa Thương Chánh thuộc ấp Vĩnh Phú,
để bảo vệ cho BCH hành quân của Trung tá Trì, TKP/TKBT. Lúc đó đại tá
Nghĩa cho thành lập hai BCH hành quân, BCH chánh do ông trực tiếp điều
động toàn bộ lực lượng DPQ-NQ đóng tại Lầu ông Hoàng, còn TKP làm việc
với các phòng 2,3 hành quân. Cũng trong ngày , DU Cúc nhận lệnh trực
tiếp từ Đại tá Nghĩa, dẫn DD 948 DPQ biệt phái cho yêu khu châu thành
tại trại Đinh công Tráng của Thiếu tá Cư, trước sân vận động Quang
Trung, nằm kế một phân đội YTQC sát trường Trung học tư thục Bạch Vân và
Dân y viện Phan Thiết. Lúc này VC đã pháo kích nhiều hỏa tiển 122 ly
vào phố, các khu vực quanh TK và Toà hành chánh thường hứng đạn. Sở dĩ
VC bắn rất chính xác vì tiền sát viên của chúng là bọn nằm vùng , một
tên giả làm ngư ông câu cá dươi chân cầu Phan Thiết, tên khác là cận vệ
của Đại tá Nghĩa, một tên làm tuỳ phái cho tòa hành chánh..
Theo Cúc, thì Phan Thiết lúc đó hầu như chỉ còn có lính mà thôi, DD 948
DPQ phòng thủ ấp Đại Tài, DD 206 trinh sát tỉnh của DU Lê văn Trò giữ xã
Tường Phong, kế đồn Trinh Tường, xa hơn có Tiểu đoàn 202 DPQ do DU
Nguyễn văn Hoàng, thế thiếu tá Bính làm XLTV tiểu đoàn trưởng, đóng tại
Phú Hội và vùng giáp ranh với Đại Nẳm. Trên liên tỉnh lộ 8, tiểu đoàn
275 DPQ bao vùng từ cầu Bến Lội , xã Lại An trên quốc lộ 1, qua tới các
ấp Tân An, Tân Điền trên đường Phan Thiết-Ma Lâm. Về phiá nam giao cho
một DD/DPQ và một Liên đội NQ giữ cổng chữ Y, bảo vệ các ấp Kim Hải,
Bình Tú và Đức Long. Trong phố, phần an ninh được giao cho các đơn vị NQ
và NDTV do Thiếu tá Nguyễn thanh Hải, xã trưởng xã châu thành Phan
Thiết chỉ huy. Tại BCH Cảnh Sát Bình Thuận nằm trên đường Cao Thắng,
phía sau CLB sĩ quan và TTTV, là phần phòng thủ của một tiểu đoàn CSDC
do Trung tá trưởng ty, Phan Trần Bảo điều động. Tại QYV Đoàn mạnh Hoạch
không có đơn vị nào tăng phái bảo vệ, chỉ còn các quân nhân cơ hửu do y
sĩ đại uý Lê bá Dũng và trung úy Công, SQ /CTCT của Đơn vị chỉ huy. Cũng
theo lời Đại uý Mai xuân Cúc hiện ở Hoa Kỳ, một nhân chứng thật của
Bình Thuận trong lúc đó, thì vị thiếu tá CHT.QYV.Đoàn mạnh Hoạch đã di
tản chiến thuật về Sài Gòn từ đầu tháng 4/1975 khi Bình Thuận đang bước
vào giờ thứ 25 định mệnh. Trong ngày 17/4/75, VC pháo kích ban ngày lẫn
đêm, một vài quả bích kích pháo và hỏa tiển rơi rớt quanh các khu quân
sự, trước tiểu đội quân cảnh điều tra tư pháp và ty bưu điện , thành phố
thật sự đã chết, nhà nhà caì chặt cửa, chen chúc chui rúc dưới các hố
tránh đạn thô sơ làm bằng bao cát mua ngoài chợ. Nơi nơi im vắng nảo
nùng ngoại trừ khu vực cồn chà Đức Thắng vẫn còn hoạt động tấp nập vì ai
cũng chạy.
Giờ N đã tới lúc 17 h 30 chiều ngày 18-4-1975, phòng tuyến Phú Long vỡ
nhưng cầu không phá kịp, tuy nhiên phía bên khu vực Phước Thiện Xuân, An
Hải, kể cả Hải Long, Lầu ông Hoàng vẫn chưa vở tuyến, đại tá Nghĩa cùng
BCH vẫn đủ giờ di chuyển về cữa thương chánh, trong lúc ngoài khơi có
hằng hà tàu chiến của hải quân VNCH nhưng không làm gí được vì tàu lớn
không áp sát ven bờ được, hơn nửa sợ pháo kích như đã từng xãy ra ở Qui
Nhơn, Phan Rang, Cà Ná..Bên Quốc lộ 1, doàn âm binh của cọng sản Bắc
việt với tăng, pháo và hàng hàng lớp lớp cán binh cở lộ quân, chừng mấy
chục ngàn người, aò aò hơn sóng cuộn cuồng phong di chuyển khắp các nẽo
đường phố thị. Tất cả các phòng tuyến DPQ và NQ gần như bị đè bẹp trước
đạn súng tối tân của Nga Hoa. Tại phòng tuyến ở Đại Tài, DU Cúc nhận
được lệnh từ Thiếu Tá Cư, yêu khu trưởng trên máy PRC 25 cho biết VC đã
chiếm được Tòa hành chánh, Tiểu khu, nên Bình Thuận coi như đã mất , DD
948 của Cúc được lệnh vượt sông Cà Ty để di tản về Bình Tuy. Nửa đêm
rạng sáng ngày 19/4/75, đại đội tới được xóm đạo Văn Lâm, từ đó lần về
quận đường Hàm Thuận, mới biết Trung tá Dụng văn Đối chi khu trưởng cùng
đại uý Lê viết Lợi chi khu phó , cũng đã nhận được lệnh di tản. Đêm
khuya thật là buồn, cả đại đội phần đói khát thêm lạnh run vì quần áo
ướt sủng nước khi lội qua sông, nên tạm bố trí tại ngả hai Phú Lâm vào
lúc 2 giớ sáng, để rồi khi tiếng gà đầu vừa cất thì mọi người cũng
choàng dậy , băng quốc lộ 1, đi ngược về hướng Phú Khánh, Bình Tú để
xuống bến tàu cạnh phi trường đợi hải quân vào rước theo lệnh của TKBT.
Trong đêm 18/4/75, qua máy truyền tin vẫn còn liên lạc 24/24, DU Cúc
biết được Thiếu tá Cư yếu khu trưởng châu thành cùng Trung tá Trí đã
xuống được thuyền của Duyên đoàn 28 HQ. Theo Điệp Mỹ Linh trong tác phẩm
“ HQ.VNCH ra khơi năm 1975 “ thì giữa lúc khói đạn mịt mùng, tàu HQ 505
nghe tiếng cầu cứu của Đại tá Nghĩa trong máy PRC 25 nhưng bất lực, tuy
nhiên như lời ông Phạm ngọc Cửu phó tỉnh trưởng, thì đại tá cuối cùng
nhờ được một ghe đánh cá đưa ra tàu lớn và đã rớt xuống biển khi hai
chiếc va chạm, cũng may mọi người cứu ông kịp thời. Rồi một chiếc trực
thăng đã đưa Đại Tá Nghĩa và Đại Uý Đặng Vũ Đàng Trưởng Phòng 2 TK/BT về
Bà Rịa-Vũng Tàu, để chuẩn bị phương tiện đón các đơn vị còn lại của
TK/Bình Thuận di tản về Nam. Sáng ngày 19-4-75 tuy cọng sản đã làm chủ
Phan Thiết nhưng khu vực bến tàu thuộc ấp Kim Hải, phía sau QYV Đoàn
mạnh Hoạch và phi trường vẫn còn thuộc quyền kiểm soát của QLVNCH, trên
bải có đầy lính đủ mọi quân binh chủng, từ Dù, SD2, BDQ tại mặt trận
Phan Rang còn đọng lại, cho tới các đơn vị DPQ-NQ tỉnh. Cũng trong ngày
19-4-75, một chiếc L19 của KQ/VNCH bay trên thành phố, kêu gọi các lực
lượng DPQ-NQ đang bị thất lạc, phải tìm cách xuống bến tàu để được lực
lượng Hải quân V2 Duyên hải cứu vớt đem về Nam. Một phi tuần F.5 có
nhiệm vụ dội bom phá sập ba cây cầu trên dòng sông Mường Mán , hầu ngăn
cản bước tiến quân của cộng quân nhưng đánh lạc vào ngả tư quốc tế, làm
hư hại một vài căn nhà trên đường Gia Long, Ngô sĩ Liên và Nguyễn tri
Phương. Cuối cùng nhờ kỷ luật và bình tỉnh, tất cả các quân nhân mọi
binh chủng có mặt trên bải biển Bình Tú vào lúc 10 giờ sáng ngày 19-4-75
đều được vớt. Lúc đó thủy triều đang xuống nên đoàn tàu lớn phải đậu xa
bờ hơn nữa cây số . Tuy nhiên nhờ những chiếc tàu đổ bộ LCM nên tất cả
các đơn vị kể cả chi đoàn TQV thuộc thiết đoàn 8 kỵ binh hành quân tại
Phan Thiết, cũng được theo tàu về nam, ngoại trừ một chiếc bị chìm tại
bải Vĩnh Phú. Tóm lại đoàn tàu hại quân thuộc BCH vùng 2 duyên hải đã
hoàn thành nhiệm vụ , chở hơn 3000 quân nhân các cấp thuộc DPQ-NQ Bình
thuận trong đó có DD 948 DPQ của DU Mai xuân Cúc, cùng các lưc lượng Dù,
BDQ, SD2BB và mọi quân binh chủng tham chiến tại Phan thiết-Phan Rang
trong những giớ phút hấp hối ngày 19-4-1975, đoàn tàu HQ đã cặp bến Vũng
Tàu an toàn lúc 3 giờ sáng ngày 20-4-1975 và các đơn vị lại được đại tá
Ngô tấn Nghĩa tiếp rước hướng dẫn , vào trú đóng tại Doanh trại củ của
Trung doàn 43 /SD18BB ở Bà Rịa, cùng góp phần tham chiến với các đơn vị
bạn tại đây cho tới ngày tàn cuộc.
+CUỘC LUI QUÂN CỦA TRUNG TÁ DỤNG VĂN ĐỐI :
Trong những giờ phút cuối cùng, lực lượng DPQ+NQ của Quận Hàm Thuận đã
được tổ chức thành chiến đoàn, gồm có Tiểu Đoàn 275 của Thiếu Tá Trịnh
Văn Bình đóng tại Phú Hội, Tiểu Đoàn 229 của Thiếu Tá Tiến, làm lực
lượng trừ bị cho chi khu, đóng tại Bình Tú, đầu phi trường Phan Thiết,
TD này trước khi di tản vào tháng 4/1975, thuộc Liên Đoàn DPQ.Bắc Bình
Thuận của Đại Tá Lại Văn Khuy, đóng tại Sông Mao.Tiểu Đoàn Tân Lập gồm
DD785 của Đại Uý Tích đóng tại Mường Mán, DD288 của Đại Uý Mai văn Sáu,
đóng tại cua Bà Phán, DD237 cyủa Đại Uý Tuấn, đóng tại số 25, DD296 của
Đại Uý Ngư, nguyên là DD cơ hữu của Chi Khu Hòa Đa đổi vùng và là DD cơ
hữu của quận Hàm Thuận.Các Trung Đội Nghĩa Quân cũng ghép lại thành Đại
Đội để xử dụng.
Lúc 8 giờ 30 đêm 18 rạng ngày 19-4-1975, SQ truyền tin Chi Khu là Trung
Uý Minh (em vợ Thiếu tá Trực, TP/TT/TKBT), nhận lệnh phá hủy đặc lệnh
truyền tin, kể cả máy móc, để chuẩn bị chạy, vì lúc đó BCH/TK cũng đã
lên tàu HQ đậu ngoài biển Phan Thiết, nhưng Trung Tá Đối không cho phá
và bảo chờ lệnh. Lúc 10 giờ 45 cùng đêm, chiếc Hỏa Long của SD3KQ có
nhiệm vụ bao vùng Bình Thuận, báo cáo với Chiến Đoàn Trưởng Hàm Thuận,
là máy bay sẽ ngưng hoạt động, vì bị trúng đạn phòng không của VC. Theo
lệnh của Tiểu Khu BT, Chiến Đoàn Hàm Thuận tổ chức lui quân, gồm 3 cánh,
TD 275 của Thiếu Tá Bình, rút theo hướng Nam dọc theo thiết lộ về Bình
Tuy. Tiểu Đoàn 229 của Thiếu Tá Tiến, rút dọc theo quốc lộ 1 cũng về
Bình Tuy. Tiểu Đoàn tân lập do các đại đội kết họp, làm thành phần bảo
vệ BCH.Chiến Đoàn, di chuyển hai bên Quốc Lộ 1, cánh quân này do Đại Uý
Lê Viết Lợi, Chi Khu Phó, chỉ huy. Đi theo chi khu Hàm Thuận, còn có các
viên chức xã ấp, nhân dân tự vệ và các đơn vị Nghĩa Quân.
Lúc 12 giờ trưa ngày 20/4/1974, các đơn vị đã tới Long Hải, tỉnh Bà Rịa
và được Thiếu Tá Trị, Trưởng Phòng 3/TK/BT ra đón về Trung Tâm Quốc Gia
Vạn Kiếp, Bà Rịa để sáp nhập vào các đơn vị của SD 22BB, đã di tản từ
Qui Nhơn vào, do tướng Phan Đình Niệm chỉ huy, tăng cường cho TK.Long An
từ ngày 21-4-1975. Như vậy, trong những ngày cuối cùng QLVNCH đã có hai
cuộc lui binh thành công, một tại bến tàu Kim Hải, Phan Thiết do
BCHV2DH thực hiện ,vớt DPQ-NQ-BT và nhiều quân binh chủng tham dự trận
Phan Rang, cuộc lui binh thứ hai bằng đường bộ từ Long Khánh về Phước
Tuy của SD18BB và các đơn vị do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy.
Những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975, các đơn vị DPQ+NQ Bình
Thuận, từ Phan Thiết di tản về Bà Rịa, vẫn do Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ
huy, mặc dù Đại Bàng lớn là Đại Tá Nguyễn Duy Tạo, Thị Trưởng Vũng Tàu
chỉ huy tổng quát các binh chủng. Chiều 29-4-1975, Dương văn Minh bổ
nhiệm Vĩnh Lộc làm Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, thay thế Cao Văn Viên đã
chạy. Do đó Vĩnh Lộc đã phong Đại Tá Nguyễn Khắc Tuân làm Chánh Văn
Phòng, đồng thời chỉ thị cho Nguyễn Văn Toàn, đem máy bay xuống Bà Rịa,
chở Đại Tá Nghĩa về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng rồi sáng
30-4-1974, Vĩnh Lộc lặng lẽ theo Đổ Ngọc Nhận dông êm, bỏ lại Đại Tá
Nguyễn Khắc Tuân, đi tù VC và chết thảm tại biên giới Việt Bắc, còn Đại
Tá Nghĩa nếu không lanh chân, trốn xuống miền tây để vượt biên sang Thái
Lan, thì số phận cũng giống như Lê Dược bị bắt từ Sài Gòn, đem về phanh
thây trước vườn hoa Phan Thiết. Riêng các đại bàng Bình Thuận, có mặt
tại Bà Rịa cho tới giờ phút cuối cùng là Thiếu Tá Phan Sang (Bốn bên),
Thiếu Tá Tiến (TDT 229), Thiếu Tá Bình (TDT275), Đại Uý Quý (TDT249),
Đại Uý Huỳnh văn Hoàng (TDT202), Đại Uý Nguyễn Văn Ba (DDT/DD283), Đại
Uý Mai Xuân Cúc (DDT/ĐĐ948), Đại Úy Trần Đăng Thiệt (TDP/TD230), Đại Úy
Thông Ngộ (DDT/TD230). Riêng DD206 Trinh Sát Tỉnh, lúc đầu do Đại Úy Lê
Văn Trò chỉ huy nhưng từ 25-4-1975, Trò về Sài Gòn tìm gia đình, nên
giao lại cho DDP là Đại Uý Hùng và những ngày cuối cùng, DD đã anh dũng
chiến đấu tại Bà Rịa, nhiều sĩ quan cũng binh sĩ trong Đại Đội chết và
bị thương rất nhiều. Tóm lại 3000 quân Bình Thuận vào Bà Rịa, trấn đóng
khắp nơi, kể cả giữ cầu Cỏ Mây trên QL15. Chiều 30-4-1975, khi Dương Văn
Minh bắt rả ngũ, một số Sĩ quan đã bị VC hốt chở về Long Khánh, sau đó
sĩ quan Bình Thuận, cùng với SQ thuộc SD 5 và 18BB, đồng tù khắp miền
biên giới Lào-Hoa-Việt, kể cả trại tù Thanh Cầm, Thanh Hoá có tên súc
sinh Bùi Đình Thi, đang bị đuổi về VC.. Quan và lính Bình Thuận như thế,
mà dám viết ‘Trận Đánh Không Có Đại Bàng ‘?
Ngày nay lịch sử đã sang trang, nhiều người một thời Bình Thuận-Phan
Thiết đầu trần chân đất, nay nhờ cơ hội ngàn năm du học bằng ghe chài,
trở thành khoa bảng, mang hàm kỷ sư, bác sĩ, nhà văn nhớn, thi sĩ, hội
trưởng..đã như quên hết lớp muối mặn còn bám trong da thịt, để xếp hàng
làm ông bà này nọ. Họ đâu có biết về những ngày lao đao lận đao lận đận
của Bình Thuận, của số phận những người đứng đầu súng làm bia cho họ
chạy như Đại Tá Nghĩa, Phó Cửu và toàn thể các cấp chỉ huy quân, cán
chính địa phương, lấy máu và lệ mắt làm ghe chài đưa họ tới bờ du học và
làm giàu, làm ông bà, hội trưởng, nhà báo hôm nay.
Hãy dành một chút lòng nhân, một chút danh dự cuả cha mẹ, một chút tự
trong của con người, để hướng về quê hương miền biển mặn, mà khóc cho
quê hương yêu dấu đang chìm đắm trong vũng bùn ô nhục của VC, dù chúng
đang cố sơn phết và được bọn việt gian Bình Thuận cổ võ qua báo chí,
mang lưới internet để mời về làm ăn, làm giàu và làm dịp lớn khoe cái
danh ba đồng tại hải ngoại.
Rồi nghìn năm sau đó, có ai nghĩ như ta, để viết về nghìn năm trước, đã
có những anh hùng, liệt nữ, từng đi qua những con đường Bình Thuận đầy
máu lệ, suốt ba thế kỷ thăng trầm.
LỜI KẾT TẠM,
Nhớ Phan Thiết-Bình Thuận để nguôi phần nào nổi nhớ quê hương trong tâm
tưởng. Có nhớ mới được dịp tâm tình với bạn bè, cây cỏ, núi sông một
thời tuổi sống. Nhiều chuyện nhớ cứ tưởng là huyền thoại mà là sự thật.
Thương nhất có lẽ là câu chuyện của Linh Mục Joe Delvelin, đã bỏ hết đời
mình cho tình người. Những giờ phút cuối cùng tại Phan Thiết, khi cái
cột đèn còn muốn nhổ trụ để chạy qua Mỹ đổi đời, thì chính vị tu sĩ nhân
ái này chỉ muốn ở lại Phan Thiết, để sống cùng những người Việt khốn
khổ, đã cùng với Ông trốn thoát cảnh cáp duồn năm nao, về lây lất tại
trại tạm cư Bình Tú. Đến nỗi người Mỹ phải bắt cóc đem lên máy bay, mới
chịu bỏ Phan Thiết, bỏ đồng bào mà đi.
Những năm trước 1975, Bình Thuận đả được Mỹ Nhật ghé mắt nhiều lần vì
Vàng và Dầu. Vàng nằm trong những chiếc tàu bị đắm thời thế chiến 2, còn
dầu thì đầy ven bờ Phan Thiết. Nhưng dầu và vàng buổi đó vẫn không phải
là quốc sách chiến lược, để Hoa Kỳ thay đổi kế hoạch giúp đỡ VNCH tồn
tại. Câu chuyện khôi hài trên, để người Bình Thuận nhớ mà cười về cái sự
quê tôi vốn là miềm biển bạc rừng vàng. Vì cái biển bạc rừng vàng của
quê tôi, bao đời chỉ riêng ai, chứ muôn năm người Bình Thuận cứ đói
nghèo hận nhục bởi kiếp đời hạ bạc.
Cuối cùng chỉ còn biết cám ơn quê hương, cám ơn sông núi, cám ơn tình
đời đã cho những ngày đáng sống, cám ơn Phan Thiết đã dạy cho ta tình tự
quê hương và biết nhớ, biết thương, biết nuôi nấng một niềm tin sắt đá
về buổi trùng phùng trên miền biển mặn, trong một tương lai rất gần.
Ai có thay đổi, nghìn năm Phan Thiết vẫn còn đó.
Tháng 3 năm 2004
MỤC LỤC
Cảm Tạ
Lời Giới Thiếu của Giáo Sư Lê Khắc Anh Vũ
Tâm Tình của Tác Giả
CHƯƠNG MỘT – Ba Thế Kỷ Nối Dài Từ Chiêm Thành
1-Những Giao Cảm Của Lưu Dân 7
2-Dân Đại Việt Trên Đất Chiêm Thành 14
3-Chúa Nguyễn-Nhà Tây Sơn 22
4-Các Vị Chúa Nguyễn 31
5-Nhà Nguyễn 1802-1945 52
CHƯƠNG HAI : Chiêm Thành, Thực Chất và HT
1-Ranh Giới Nước Chiêm Thành 101
2-Chiêm Thành Tự Làm Vong Quốc 107
3-Đất Và Người Chiêm Thành 117
4-Mẫu Hệ Chàm 132
5-Nền Văn Hóa Chiêm Thành 137
6-Những Bí Ẩn Tháp Chàm 160
7-Những Lễ Hội Của Người Chàm 175
8-Sự Liên Hệ Giữa Người Chàm và 189
9-Huyền Thoại Cuộc Tình Chế Mân-HT 203
CHƯƠNG BA : Từ Nguyễn Tất Thành tới Trường DT
1-Nguyễn Thông 212
2-Nguyễn Tất Thành-Trường Dục Thanh 239
3-Huyền Thoại Cứu Nước 265
4-Nguyễn Tất Thanh, con người trăm mặt 298
5-Huyền Thoại Chín Năm Cứu Nước VM 326
6-Bình Thuận, Chín Năm Kháng Pháp 346
CHƯƠNG BỐN : Bình Thuận Qua ba Thế Kỷ
1-Bình Thuận, qua DNNTC 382
2-Bình Thuận, Xưa Và Nay 397
3-Người Bình Thuận Trước Nghịch Cảnh 404
4-Bình Thuân, qua địa bạ triều 437
6-Tỉnh Bình Thuận ngày nay 449
CHƯƠNG NĂM : Qua Những Nẻo Đường Bình Thuận
1-Phú Quý 468
2-Tuy Phong 491
3-Bắc Bình 501
4-Hàm Thuận Bắc 513
5-Hàm Thuận Nam 519
6-Hàm Tân 529
7-Tánh Linh 533
8-Đức Linh 536
CHƯƠNG SÁU : Phan Thiết Trong Tâm Tư Người Ly Xứ
1-Từ Hamulithit tới Phan Thiết 552
2-Phan Thiết, qua di tích và lịch sử 563
3-Lòng Tin Thầy Chúa 585
4-Hát Bả Trạo và Lệ Cúng Ông Nam Hải 596
5-Bản Chèo Của Lê Ngọc Yến 613
6-Phật Dào Và Đạo Thiên Chúa BT 660
CHƯƠNG BẢY :Thăm Lại Đường Xưa Lối Cũ BT-PT
1-Ba Trăm Năm Nghề Biển 687
2-Hương Vị Phan Thành 703
3-Tiếng Vọng Ngày Qua 712
4-Nhân Vật Chí – Xưa và Nay 739
5-Hậu Duệ Bình Thuận 777
6-Các Hội Thân Hữu Bình Thuận 784
CHƯƠNG TÁM : Bình Thuận, Những Năm Tháng Ly Loạn
1-Các Đời Tỉnh trưởng 804
2-Những Chiến Sĩ Biệt Chính Đoàn 807
3-Tiểu Khu Bình Thuận 825
4-Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa 836
5-Tháng Tư Đen 1975 tại Bình Thuận 847
Lời Kết Tạm
Mục Lục
Tài Liệu Tham Khảo
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Hình Ảnh Bản Đồ, sao lục trích mượn của các tác giả trong và ngoài nước.
Đại Nam Nhất Thống Chí
Đại Nam Thực Lục Chính Biên
Đại Nam Liệt Truyện
Lê Hương, Lê Quang Nghiêm, Lê Hữu Lể
Quân Sử của Bộ TTM/QLVNCH
Chánh Đạo, VN Niên Biểu Nhân Vật Chí, Hồ Chí Minh..
Chương Thâu, Phan Bội Châu
Tạ Chí Đại Trường
Đào Duy Anh
Đoàn Thêm
Nghiêm Kế Tổ
VNSL của Trần Trọng Kim
Ngô Sĩ Liên
Nguyễn Khắc Ngữ
Nguyễn Thế Anh
Nguyễn Văn Huy
Pham Văn Sơn
Phan Khoang
Cùng nhiều tài liệu trích trong Đặc San BT của Trần Phụng Đình, Thu Nhi,
Nguyễn Thị Phát, Nhất Uyên, Tiếp Sĩ Trường, Sao Mai, Lê Khắc Anh Vũ,
Nguyễn Thanh Tùng, Dụng Văn Đối, Ngô Tấn Nghĩa, Mai Xuân Cúc.
Điạ Bạ Bình Thuận của Nguyễn Đình Đẩu..